Lớp đấu tranh Thái Hà và quyết định kỷ luật đối với Nhân Văn Giai Phẩm – Pv Lê Đạt

Tháng Tư 26, 2008 at 5:36 chiều (. Lê Đạt, Nhân Văn Giai Phẩm)

Download file Audio

Nguồn Thụy Khê

Trong các tài liệu chính thức, lớp đấu tranh Thái Hà được gọi là hội nghị:”Ðầu năm 1958, có hai cuộc hội nghị của anh chị em công tác văn nghệ, nghiên cứu nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương đảng Cộng Sản Việt nam, kết hợp với hai bản tuyên ngôn và tuyên bố của hội nghị các đảng Cộng Sản và các đảng công nhân họp ở Mạc Tư Khoa, cuối năm 1957. Hội nghị đầu, tháng 2 năm 1958, gồm có 172 người dự. Hội n ghị sau, tháng 3 năm 1958, gồm có 304 người dự.

Qua hai cuộc hội nghị ấy, tất cả những nhân vật bỉ ổi đã được phát hiện”

(trích “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận”, nxb Sự Thật, Hà nội, 1959, trang 309).

Nhưng trong thực tế, nội dung những “hội nghị” này là gì? Lê Ðạt, chứng nhân không thể loại trừ,  sẽ thuật lại quang cảnh những gì đã xẩy ra.

T.K.: Thưa anh, về mặt thực tế thì có thể nói là sau khi Trung Quốc đánh phái hữu, bên Việt Nam mới bắt đầu tổ chức lớp Thái Hà?

L.Ð.: Cuối năm 1957, như Thụy Khuê đã biết, Trung Quốc bắt đầu đánh phái hữu thì tháng 2 năm 1958 bắt đầu tổ chức cái lớp mà người ta gọi là lớp đấu tranh Thái Hà để chống phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Lúc ấy Nhân Văn đã đóng cửa được gần hai năm rồi, tức là đánh là đánh lại đấy thôi. Lớp đầu tiên tổ chức cho các đảng viên, tôi không là đảng viên nữa thì dĩ nhiên là tôi không được đi học. Lớp đó có Văn Cao, Ðặng Ðình Hưng… tức là người ta vận động các đảng viên khác phát hiện tất cả những tội của những đảng viên tham gia Nhân Văn Giai Phẩm đã đành rồi, nhưng còn để phát hiện cả những tội của những người chưa tham gia Nhân Văn, của quần chúng, vì vậy người ta phải làm trong buổi trước.

Tôi thấy lớp đó đã gay go lắm rồi, vì tôi gặp Ðặng Ðình Hưng mà Ðặng Ðình Hưng không dám nói gì cả, chỉ bảo: Gay lắm! Gay lắm! Văn Cao cũng không nói gì cả, thì tôi biết là gió đã thổi mạnh lắm rồi. Hôm đó là ngày mùng 2 (tức là trước Tết Âm lịch), tôi đến Hội Nhà Văn thì tôi thấy không khí đã khác lắm. Gặp Tô Hoài thì Tô Hoài bảo:“Tí nữa tao ra tao nói chuyện với mày”. Tôi hẹn Tô Hoài ở hàng cà phê mà hai người vẫn gặp nhau, nhưng tôi đến thì Tô Hoài cũng không đến nữa, tôi biết là tình hình căng lắm rồi. Căng lắm rồi. Ðến tháng ba (tức là sau Tết), năm 1958, họ tổ chức một cuộc họp rộng rãi cho tất cả những anh em Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi phải nhắc lại với chị thế này: “Không phải là chị Thụy An, anh Duy và ông Phan Khôi không chịu đi học, ở đấy người ta chia ra: Những người nào hoạt động chính trị mà người ta cho là có tính chất phản động, là những phần tử xấu thì người ta không cho đi học lớp ấy, Phan Khôi, Thụy An, Trần Duy không được học. Chỉ có những văn nghệ sĩ mà người ta cho là những người vì quan điểm lầm lạc, được Ðảng chiếu cố cải tạo giúp đỡ, thì mới được đi học lớp ấy thôi. Cho nên đi học lớp ấy gay go thế cũng là một ưu tiên”.

T.K.: Thưa anh, trong lớp học ấy mọi người phải làm những gì ạ?

L.Ð.: Khi tôi đến, anh Tố Hữu có nói thế này: “Các anh làm thì sai rất nhiều, nhưng mà Ðảng thấy các anh còn trẻ và đều là những người kháng chiến cả cho nên Ðảng vẫn tin rằng các anh còn ở lại được hàng ngũ của kháng chiến. Nhưng ở lại hay không ở lại là tùy các anh. Ðảng lúc nào cũng sẵn sàng, nhưng các anh có muốn ở lại hay không mà thôi”. Tôi chưa thấy một cuộc họp nào gay gắt như thế. Ðây không phải là một cuộc học tập mà là một cuộc đấu tranh, nó khác hẳn các cuộc học tập khác. Người ta bắt đầu, trong những ngày đầu, vạch tất cả những tội của những người trong Nhân Văn Giai Phẩm, những ai nhớ được gì thì nói ra…, nó như là một cái tụi… tố cáo (cười)! Tôi kể với chị, ví dụ một chuyện: Trong một bữa ăn uống ở cuối Tết, tính Tử Phác nó vẫn hay gây gỗ với người này người khác, thì tôi có nói một câu rằng là: “Thôi, năm mới, mẹo mới.” Thế là người ta cũng mang ra cái hội nghị ấy người ta nói: “Năm mới, mẹo mới là cái gì? Mẹo mới chỉ là mẹo chống Ðảng chứ gì, thì phải nói ra!” (cười). Cho nên mọi việc phức tạp vô cùng, nó gây một không khí rất căng thẳng. Nó không còn là một cuộc học tập nữa cho nên phải gọi là cuộc đấu tranh. Trong khi “học” như thế thì công an đi ra đi vào rất nhiều, mà đi một cách rõ ràng cho mình trông thấy chứ không phải người ta kín đáo gì.

Sau khi tất cả mọi người phát hiện các tội của Nhân Văn xong rồi, thì mới đến lượt Nhân Văn, từng người một, nhận tội. Lúc đó người ta cũng nói một cách lịch sự là tự kiểm điểm thôi. Tôi nói như thế này là để chị thấy tình hình găng như thế nào. Tức là một hôm Sỹ Ngọc đi với Nguyễn Huy Tưởng, Sỹ Ngọc nói rằng: “Như thế này tức là mình lỗi lầm nhiều quá, chắc là mình cũng không trở lại hoạt động văn nghệ được nữa đâu!” Thì Nguyễn Huy Tưởng – vốn là người tốt mà- anh ấy nói: “Không! Ðấu tranh có gì sai thì ta sửa, còn anh em vẫn là anh em, nghệ thuật vẫn là nghệ thuật chứ!” Thì Nguyễn Khải đứng lên, Nguyễn Khải phản đối, Nguyễn Khải nói: “Tôi thấy quan điểm của đồng chí Nguyễn Huy Tưởng rất mơ hồ, đây không phải là cuộc đấu tranh giữa anh em nội bộ, đây là cuộc đấu tranh giữa ta và địch”. Hay là một buổi khác, vừa lên lớp một cái thì anh Võ Hồng Cương là một người trong học ủy, lên nói rằng: “Tôi phải báo cho các đồng chí biết một tin rất mừng là hôm qua đồng chí Tám Danh -đồng chí Tám Danh là một đồng chí nghệ nhân ở miền Nam-, trước thái độ ngoan cố của Lê Ðạt, tức quá, đã vác búa đi tìm để đánh. Nhưng may mà học ủy phát hiện kịp thời nên đã ngăn chặn kịp thời cái hành động đó”. Cái không khí luôn luôn bị hun nóng như thế. Nhưng chúng tôi, ở đó, thì… mình nghĩ mãi cũng chẳng thấy thêm được cái tội gì cả (cười)! Bi kịch của chúng tôi lúc bấy giờ là như thế này: Không phải sợ -sợ chưa chắc đã sợ, lẽ dĩ nhiên là trong chúng tôi cũng có anh sợ, ví dụ như anh Hoàng Cầm chẳng hạn, anh ấy rất sợ, nhưng tôi, tôi chưa nghĩ đến chuyện sợ- tôi nghĩ bây giờ họ “đòi hỏi” nhiều quá mình chưa nghĩ ra cái tội nào to để cho họ có thể bằng lòng được. Mà nếu họ không bằng lòng thì không biết họ kéo mình đến bao giờ, chỗ đó là cái lo nhất của tôi. Vì kiểm điểm lại thì tôi thấy mình không có tội gì ghê gớm quá, nó có tính chất … hấp dẫn (cười) để họ không thể nào tha thứ cho mình được cả. Sau đó, anh Cầm đã nói.

Không khí rất căng thẳng, tôi nói thế này để chị biết nó căng thẳng như thế nào: Văn Cao đã đi lớp trước rồi, lớp cho đảng viên hồi tháng 2, thì sau đó, họ cũng kéo tất cả lại để đánh tiếp: Tức là họ học tập đảng viên phát hiện quần chúng, để họ đánh, trong lớp trước, nhưng, bây giờ quần chúng lại phát hiện trở lại, để nếu có gì của đảng viên, họ lôi lại đánh tiếp luôn, chị có rõ ý tôi không? Thế thì, tôi thấy Văn Cao -hôm ấy trời nóng- Văn Cao mặc áo sơ mi to phồng thế mà sau khi nó tố những khuyết điểm của Văn Cao, tôi thấy cái áo sơ mi cứ dính dần, dính dần, dính dần… nó toát hết cả mồ hôi, nó dính như một cái áo lót cơ mà… Ðấy, chị thấy không khí nó căng thẳng như thế nào.

T.K.: Thưa anh, rút cục anh đã nhận những tội gì để cho họ bằng lòng ạ?

L.Ð.: Bây giờ anh làm trong tổ, tổ thông qua bài khai của anh. Bài của anh lại phải đưa ra hội trường, hội trường thông qua thì anh mới được xong. Nếu không thì anh cứ việc tiếp tục lại. Coi như xong, nhưng chưa thành khẩn, thì lại phải viết tiếp. Mình cứ phải viết tiếp, viết tiếp… mãi, mà mình chỉ có từng ấy ý thì làm sao viết thêm được mãi! Sau đó, chắc là Dần nó cũng đồng ý với tôi -lúc ấy, anh em không trao đổi được, nó theo dõi ghê lắm- là mình cứ nhận phắt cái tội “cướp cờ của ông Tố Hữu” cho nó, chắc là nó, cũng thông qua thôi. Khi tôi nói đến chỗ ấy thì mọi người bảo: Lê Ðạt thì còn ngoan cố nhiều nhưng cũng được tương đối “thành khẩn” (cười). Thế là họ cho tôi nghỉ!

Trong lúc kiểm thảo như thế, thì người ta loan tin, người ta nói rằng: “Công an đã bắt Nguyễn Hữu Ðang!” Cái anh Ðang này, ông ấy cũng là người hoạt động mà sao dại dột thế! Ông lại nhờ người mang một lá thư về Hải Phòng để bố trí cho ông ấy vào Nam. Cái thằng dại dột quá! Thế là nó bắt được cái thư ấy. Vì chính người đưa thư ấy là người của công an. Thế là họ đồn ầm lên: “Sự liên hệ giữa Nhân Văn và bọn Mỹ Diệm là đã rõ ràng rồi. Nguyễn Hữu Ðang trong lúc không còn đường thoát nữa, liên lạc với trong ấy và chúng ta đã bắt được Nguyễn Hữu Ðang rồi, bắt vào ngày bao nhiêu, bao nhiêu”... Tất cả mọi người vỗ tay hoan hô, hoan hô… Tức là một sức ép rất ghê gớm, chị ạ.

Những tuần trước thì tuần nào cũng được về nhà, nhưng đến tuần cuối cùng thì không được về nhà nữa, tức là làm liên tục, ai làm xong mới được về nhà. Tôi và Dần rồi cũng làm xong cả. Trên đường ra về, anh Tố Hữu có đợi tôi ở cửa, lúc bấy giờ đã lạnh lùng lắm rồi. Anh Tố Hữu có nói với tôi thế này: “Tội của anh cũng nặng như tội Nguyễn Hữu Ðang. Lẽ ra anh cũng bị đi tù. Nhưng mà Ðảng vì nghĩ đến anh, chiếu cố đến anh còn trẻ, có khả năng và còn có thể giúp ích được cho đời nữa nên Ðảng khoan hồng với anh thôi chứ anh- đừng- nên- nghĩ- rằng- anh- tội- nhẹ!” Ðó là lời dặn dò của Tố Hữu với tôi trước khi tôi về.

T.K.: Thưa anh, tóm lại cuộc đấu tranh như vậy kéo dài trong bao lâu?

L.Ð.: Một tháng.

T.K.: Và trong suốt một tháng ấy là cứ ngày nào, ngày nào cũng…

L.Ð.: … lên phát hiện tội. Cứ phát hiện tội, tức là mình có gì thì mình báo cáo còn người ta, người ta phát hiện tội của mình. Nó là một thứ đấu tranh đấy mà. Ðấu tranh rất gay gắt. Và lẽ dĩ nhiên, nói là cả lớp, nhưng người ta chỉ tập trung vào một vài người thôi, trong số đó có tôi, cho nên vất vả lắm.

T.K.: Thưa anh, cái cách “phát hiện” ấy như thế nào? Tất cả mọi người đều viết ra giấy hay là …có nói miệng nữa?

L.Ð.: Không! Không! Tất cả mọi người đều đứng lên phát hiện chứ. Phát hiện thì có thư ký ghi hết và bản thân mình cũng phải ghi. Rồi sau căn cứ trên cái phát hiện của người ta, mình về tổ, mình phát hiện cái khuyết điểm của mình, cái tội của mình và sau đó mình phải làm bài kiểm điểm rất dài về toàn bộ thời gian mà mình tham gia Nhân Văn. Người ta phát hiện, thế còn mình không được nói nữa. Ðông Tây người ta phát hiện ầm ầm, ầm ầm, làm sao mà mình có quyền, nhất là không được cãi gì. Tôi nói một ví dụ, xin lỗi chị, ví dụ như là có một anh -bây giờ tôi không muốn nói tên- lên phát hiện tôi:”Lê Ðạt là một tên rất phản động, buổi sáng nào anh ta cũng đến cơ quan, rồi anh ta xé báo Nhân Dân anh ta đi vệ sinh” (cười). Tôi không thể nói rằng: “Bây giờ tôi không có giấy -thời ấy chưa có giấy toa-lét- thì tôi phải…” (cười). Thế là mọi người “Ðả đảo! Ðả đảo!” Nó cũng kỳ. Mà chị còn lạ gì tôi nữa, tôi vốn là người, không phải là người can đảm gì nhưng trong tôi vốn là người hài hước (cười) vì tôi hay cười, và vì cái cười của tôi cho nên người ta hay ghét lắm. Người ta vẫn cho tôi là người ngoan cố, cho nên người ta bảo người đi đánh là vì thế (cười).

T.K.: Thưa anh, trong không khí đấu tranh gay gắt như thế có ai bênh anh không?

L.Ð.: Tôi vẫn quý trọng Nguyễn Huy Tưởng. Tôi nhắc lại, tháng ba (tức là sau Tết) năm 58 thì có lớp đấu tranh Thái Hà, thì mùng ba Tết năm ấy, tôi có hẹn lên ăn cơm ở nhà Tô Hoài, trên Bưởi. Lên thì lúc đó thì đã gay go lắm, tôi có gặp Nguyễn Huy Tưởng, Kim Lân, Bổng. Bổng lúc đó mặt đã lạnh lùng. Bổng nó tham gia ban lãnh đạo rồi. Mà ăn uống với nhau thì lúc đó đã làng tàng lắm rồi, chị bảo không khí lúc đó thì còn ăn uống gì nữa, mặc dầu Tô Hoài cũng làm cho ra vẻ. Thì Tưởng có nói một câu mà tôi rất cảm động. Tức là, trên đường về, Tưởng nói rằng: “Tôi thấy các ông lý luận buồn cười. Các ông lý luận thế nào chứ moa không thể tin thằng Lê Ðạt nó phản động được. Nó ở với moa bao nhiêu lâu, moa còn lạ gì nó nữa, bây giờ các ông có lý luận thế nào moa cũng không thể tin là thằng Lê Ðạt nó phản động được!” Thì tôi thấy, riêng về Tưởng: một là tư tưởng Tưởng rất tốt. Hai là Tưởng sau trận Nhân Văn Giai Phẩm, người nó tỉnh ngộ ra nhiều lắm. “Một thằng như thế mà anh làm sao bảo nó phản động được!” Tưởng nói như thế ngay mặt Nguyễn Văn Bổng. Và Nguyễn Văn Bổng là người trong ban lãnh đạo của cái lớp học tập ấy. Mà nói lúc bấy giờ rất nguy hiểm. Ðó là con người Nguyễn Huy Tưởng mà tôi rất quý.

T.K.: Thưa anh, sau lớp đấu tranh Thái Hà, thì tâm trạng của anh như thế nào? Nếu phải làm lại thì anh có dám làm Nhân Văn Giai Phẩm nữa không ạ?

L.Ð.: Xong, tức là người ta xác định được như thế là chúng tôi đều là những người có tội cả. Và như thế nghĩa là ở trên báo Nhân Dân, đăng tải trên một tirage rất rộng khắp nước, ở đâu người ta cũng nói đến Trần Dần – Lê Ðạt là hai tên thơ phản động nhất nước. Thì như thế tự nhiên nó gây một áp lực rất ghê đối với gia đình tôi, đối với bản thân tôi. Tôi phải nói, những lúc ấy, thì ngay như là ông già tôi cũng khuyên: “Con không nên về nhà nữa”. Còn vợ tôi thì rất lo. Trong những buổi đấu tranh cuối cùng ấy, lúc nào thấy tôi không về, luôn luôn sợ là bị bắt rồi. Chị không thể tưởng tượng được là không khí căng thẳng như thế nào. Nhưng lúc đó, nói tôi sợ thì cũng không đúng, mà nói tôi không sợ thì cũng không đúng. Vì tôi nghĩ trong thâm tâm mình cũng chẳng làm gì có tội cả. Và lúc đó tôi chưa nghĩ được và chưa nghiên cứu được tất cả những vụ xử án ghê gớm của Ðảng như sau này tôi nghiên cứu. Cho nên lắm lúc tôi cứ tự hỏi rằng: “Nếu mà mình nghiên cứu trước, thì không biết mình có dám làm Nhân Văn không?” Chắc là tôi cũng vẫn sẽ làm, nhưng chắc là mình làm cẩn thận hơn. Chắc là có. Tại vì lúc ấy tôi nghĩ rằng mình chẳng làm gì bậy cả. Nếu không có gì bậy, mà một cái đảng là đảng tử tế, mà lại bắt những người không làm bậy, thì không bao giờ tôi nghĩ lại có chuyện xẩy ra như thế cả. Mãi sau này, tôi mới có thời gian, tôi nghiên cứu tất cả những vụ án xử ở bên Liên Xô và cả mọi thứ, khi tôi có kinh nghiệm, thì lúc đó đã xong rồi, tôi đã làm rồi. Nhưng mà tôi chắc là nếu lúc đầu tôi biết chuyện sẽ xẩy ra như thế, thì tôi cũng sợ nhiều hơn và chắc tôi sẽ làm một cách cẩn thận hơn.

T.K.: Thưa anh, sau đó các anh bị kỷ luật như thế nào ạ?

L.Ð.: Sau đó là mọi người đã về cả, và lẽ dĩ nhiên là anh Tố Hữu trong bản tổng kết nói là: “Chúng ta đã thắng lợi. Hơn 100 anh em đi thì được 100 anh em về. Ðảng như thế vẫn bao dung cho tất cả”.

Sau đó, theo quyết định của Hội Nhà Văn thì tôi bị khai trừ ba năm. Nặng nhất có tôi, anh Trần Dần, anh Ðặng Ðình Hưng, anh Tử Phác. Anh Cầm thì bị hai năm, anh Phùng Quán một năm. Lúc đó mình cũng rất ngây thơ, phải nói như thế. Mình tin là sau ba năm thì mình sẽ trở về với văn nghệ, và tôi tin là với khả năng của mình, mình có thể đuổi lại được thời kỳ đã mất, cũng chẳng đáng bao lâu. Tôi, với Trần Dần, Tử Phác về trại Chí Linh của đồng bào khu V ra ngoài này tập kết, khai hoang ở Chí Linh, anh tổ trưởng là bố của Ý Nhi, anh Hoàng Châu Ký. Ðầu tiền, họ không nhận, họ nói rằng: “Chúng tôi ra ngoài này là để đấu tranh cho thống nhất chứ có phải đi giữ tù đâu!” Thế là ở trên tổ chức lại phải cử người về nói rằng: “Không! Ðây cũng là những đồng chí mình, do lập trường không vững thành ra Ðảng vẫn muốn cải tạo, thấy đây tổ chức tốt thì về”. Và tôi về thì tôi bị – nói như thời ấy là tôi được – được lao động một cách vất vả ngay, tức là đi chăn bò, đi khai hoang, làm tất cả mọi thứ lao động mình chưa quen, chưa quen tí nào cả. Thời ấy tôi còn trẻ lắm, tôi mới 26, 27 tuổi thôi, thành ra tôi cũng không sợ gì những thứ lao động vất vả ấy cả. Tôi chăn bò rất khá. Hình như là nông trường thấy tôi có “năng khiếu” cho nên họ cứ để tôi chăn bò mãi. Tôi có thể chăn được 30 con bò cơ mà.

Nhưng lúc đó thì tất cả đất nước đối với tôi đã khác rồi. Tôi không còn là người công dân bình thường của đất nước Việt Nam nữa vì đi đâu người ta cũng nói đến Trần Dần – Lê Ðạt như hai người phản động. Mà vợ tôi thì rất khổ. Theo vợ tôi nói, sáng nào dậy cũng chỉ muốn chui xuống đất thôi. Tại vì bắt đầu dậy là bắt đầu học tập về Trần Dần – Lê Ðạt rồi. Vợ tôi làm việc ở cơ quan, ở tập thể, lúc nào người ta cũng nói đến Trần Dần – Lê Ðạt, ý của cơ quan là muốn vợ tôi phải bỏ tôi. Tôi phải nói với chị thế này: Vợ tôi là diễn viên xuất sắc nhất của Ðoàn kịch nói cách mạng của Trung ương. Vợ tôi là Nguyễn Thị Thúy, mà người ta vẫn gọi một cách văn chương là Thúy Thúy. Thế Lữ này, Nguyễn Huy Tưởng này, tất cả những đạo diễn xuất sắc đều khen vợ tôi ghê lắm. Tưởng thì bốc ghê lắm, Tưởng nói là: “Cô ấy đúng là một tài năng”. Cho nên vợ tôi rất khổ. Ngày nào cũng phải kiểm điểm và thỉnh thoảng họ đến lục ba-lô xem có giấy tờ gì của Lê Ðạt còn giấu ở đấy không. Mà vợ tôi nó còn trẻ, lúc ấy mới 18, 19 tuổi ấy mà. Anh của cô ấy là một thiếu tá, mà lần nào đến thăm em cũng cho liên lạc đến chứ không lần nào dám bước chân vào nhà tôi cả! Tức là nó ở trong một sự cô đơn hoàn toàn, mà chắc là tôi thì còn chịu đựng được chứ vợ tôi -tôi chắc bây giờ hỏi nó về Nhân Văn Giai Phẩm thì nó cũng chẳng biết là cái gì- cái tai vạ ụp xuống đầu nó nặng quá, lúc ấy nó chưa đến 20 tuổi đầu và đang bắt đầu vào cái nghiệp sân khấu. Như thế là riêng tôi, tôi đã làm hỏng sự nghiệp sân khấu của vợ tôi.

Bình luận về bài viết này