Sự thành lập Nhân Văn và vai trò của Phan Khôi, Nguyễn Hữu Ðang và Thụy An trong tờ Nhân Văn. – Pv Lê Đạt

Tháng Tư 26, 2008 at 5:51 chiều (. Lê Đạt, . Nguyễn Hữu Đang, . Phan Khôi, . Thụy An, . Trần Thiếu Bảo, Nhân Văn Giai Phẩm)

Download file Audio

Nguồn Thụy Khê

Nếu Giai Phẩm Mùa Xuân dựa vào một nhóm văn nghệ sĩ thuần túy, thì tờ Nhân Văn có những khuôn mặt chính trị. Sự buộc tội nặng nề nhất của nhà cầm quyền hướng về “những tên đầu sỏ” Phan Khôi, Thụy An, Nguyễn Hữu Ðang, Trần Thiếu Bảo, Lê Ðạt… Nhưng sự thật ra sao? Ai là “đầu sỏ”? Phan Khôi, Thụy An, Nguyễn Hữu Ðang, Trần Thiếu Bảo.. làm gì trong tờ Nhân Văn?Lần đầu tiên Lê Ðạt trả lời công khai về  những sự kiện này.

Thụy Khuê: Thưa anh, có thể nói giai đoạn thứ nhì của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bắt đầu từ sự ra đời của tờ Nhân Văn, vậy thưa anh, báo Nhân Văn đã ra đời trong hoàn cảnh nào, ở thời điểm nào và do ai chủ xướng?

Lê Ðạt: Tháng 5 năm 1956, bắt đầu ở Trung Quốc có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở thì ở Việt Nam cũng bắt đầu có cuộc học tập văn nghệ về vấn đề dân chủ. Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Và tôi phải nói về anh Ðang như thế này: Anh Ðang là người hoạt động lâu năm ở trong Ðảng, nhưng đã từ lâu – hình như có cái gì không bằng lòng mà trong danh từ của chúng tôi người ta thường gọi là “bất mãn” – anh không hoạt động nữa. Lúc bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng có đón anh ấy ra để làm báo Văn Nghệ, cùng với tôi. Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm”. Ðó là lời nói của Ðang như thế. Trong tất cả các anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ có tôi là biết Ðang thôi, nhưng do việc họp văn nghệ như thế thì Ðang cũng dần dần biết anh em chúng tôi nhiều hơn, tiếp xúc với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân nhiều hơn, nhưng Ðang cũng chỉ thân với tôi thôi. Thế còn Trần Dần, Văn Cao, và các anh em… cũng không thân gì với Ðang lắm.

Ðang nói với tôi: “Thế nào cũng phải ra báo và ra báo thì chắc là tụi mày phải làm thôi.” Vì tình hình Trung Quốc họ làm như thế, cho nên ở Việt Nam cũng có cởi mở hơn về vấn đề dân chủ, tháng 9 năm 1956, cho tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân. Như thế bước đầu, có thể gọi là một thắng lợi. Và trong tình hình sôi sục như thế Ðang có đề nghị ra một tờ báo, tờ báo này chính là tờ Nhân Văn.

Tờ Nhân Văn thì không do tôi đặt tên, điều đó chắc là rõ ràng rồi. Và khi Giai Phẩm Mùa Xuân được tái bản thì lập tức nó đẻ ra một loạt những giai phẩm khác: Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Ðông và bên phiá sinh viên, là tờ Ðất Mới. Tức là lúc đó tự nó hình thành một phong trào rộng lớn của trí thức miền Bắc: Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Ðông, Ðất Mới… Vì người ta tôn trọng Giai Phẩm Mùa Xuân mà thực tế cũng là thế, nên người ta vẫn cho rằng, chính cái gốc của tất cả những giai phẩm này cũng như của Ðất Mới là Giai Phẩm Mùa Xuân. Lúc đó, anh Minh Ðức có nói với tôi rằng: “Hay là bây giờ anh chịu trách nhiệm Tổng biên tập tất cả các giai phẩm này”, thì thôi nói: “Tôi bận quá, tôi không thể làm được”. Sau đó các anh ấy làm với nhau thôi, chắc là một phần là anh Ðang, một phần là các anh ấy làm, tôi không làm.

T.K.: Thưa anh, tất cả các Giai Phẩm Mùa Xuân, Mùa Thu, Ðất Mới, … này ra đời, là một hiện tượng bộc phát hay là có sự bàn bạc chung giữa các anh chị em tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm?

L.Ð.: Cái đó không phải là bàn bạc gì với nhau, nhưng mà tự nhiên nó hình thành một phong trào đòi hỏi dân chủ và cách tân văn hóa ở miền Bắc, tập trung chung quanh Giai Phẩm Mùa Xuân và nhóm Ðại Học do anh Ðào Duy Anh, anh Trương Tửu, anh Thảo … và tôi thấy tình hình lúc ấy bắt đầu khó khăn. Tại vì lúc nó chỉ là một tập Giai Phẩm Mùa Xuân thì được, nhưng đến khi nó trở thành phong trào rộng lớn như thế này thì chắc là phải suy nghĩ một cách kỹ lưỡng hơn. Và chúng tôi lúc đó đều mệt mỏi lắm rồi. Làm xong Giai Phẩm Mùa Xuân cũng mệt lắm, vì cũng chỉ định làm một việc ngắn hơi thôi, phải nói thật là tôi không nghĩ đến việc dài hơi, để thành ghê gớm như thế này, tôi cũng không nghĩ như thế! Nhưng đời nó vẫn thế, mình làm là một chuyện, rồi cuộc đời nó đẩy đưa mình đi. Những Giai Phẩm Mùa Thu, Mùa Ðông cũng vẫn tiếp tục việc của Giai Phẩm Mùa Xuân, với những bài này, bài khác rồi chị sẽ đọc sau, trong các tài liệu… Ðiểm chính là phong trào đã phát triển và cái này thì đúng là có ảnh hưởng Trăm Hoa Ðua Nở của Trung Quốc: Tại vì phong trào Trăm Hoa Ðua Nở của Trung Quốc nó làm cho Việt Nam phải suy nghĩ về chính sách văn học nghệ thuật của mình; chắc chắn đó là có ảnh hưởng, mình không nên phủ nhận cái ảnh hưởng của người ta. Nhưng ảnh hưởng sinh ra Giai Phẩm thì không có, tôi muốn nhấn mạnh ở chỗ ấy.

T.K.: Thưa anh, tóm lại Giai Phẩm Mùa Xuân ra đời vào tháng giêng năm 1956, sau đó bị tịch thu; nhờ có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở ở Trung Quốc mà tháng 9/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân được tái bản, đồng thời có thêm Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Ðông, Ðất Mới và tờ Nhân Văn. Xin anh nói về sự thành lập tờ Nhân Văn như thế nào và ban biên tập có những ai?

L.Ð.: Xong Giai Phẩm Mùa Xuân thì tình trạng anh em, phải nói như thế này: Bấy giờ anh Dần mới sinh  cháu thứ nhất tức là cháu Kha bây giờ và tôi cũng bắt đầu lập gia đình thành ra chúng tôi đều có những lo lắng mới cả. Mà trong anh em thì cũng có nhận định như thế này: Vai trò của mình như thế cũng là xong, mình làm xong Giai Phẩm Mùa Xuân rồi thì cũng có thể nghỉ được.

Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn lắm: Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ. Anh Ðang lại không thuộc nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân, anh Ðang là một cán bộ chính trị cũ thì anh chỉ biết tôi thôi, thế còn quan hệ với các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân thì anh Ðang lại không có. Mà các anh ở Giai Phẩm Mùa Xuân thì cũng không thích anh Ðang. Rồi anh em mới quyết định thế này: Anh Cầm anh ấy đang rỗi rãi thì giao cho anh Cầm, tách anh Cầm ra để làm việc cùng với anh Ðang.

Về số 1 Nhân Văn, nguồn gốc cái tên Nhân Văn, bây giờ kể lại, nó có hơi phức tạp, vì tôi không hiểu là ai nói đúng. Tôi chắc rằng các anh ấy cũng chẳng phải nói dối đâu nhưng mà chắc là trí nhớ của các anh không phục vụ các anh ấy một cách trung thành: Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thì tôi cũng không hiểu như thế nào, nhưng có một điều khẳng định là tôi không nghĩ ra cái tên tờ Nhân Văn ấy. Cái ấy thì rõ. Còn việc ấy cứ để các anh tĩnh trí nghĩ lại. Mà tôi thấy việc ấy cũng chẳng đáng gì (cười). Nhưng sau, thấy tờ Nhân Văn lung tung quá, nhiều người đến, những nhà xuất bản ở nhiều nơi cũng đến ủng hộ tiền nong, mọi thứ, nhiều quá. Tự nhiên trở thành một phong trào rất to. Lúc ấy, các anh Giai Phẩm mới nói: “Thế này thì chắc là Lê Ðạt phải vào rồi”, tại vì các anh vẫn nghĩ rằng tôi là người có cái nhìn quán xuyến, còn Cầm thì chắc là không làm xuể. Anh em nói thế, thì tôi cũng đành vào thôi. Vào một cái, thì anh Ðang đặt luôn vấn đề: “Cậu phụ trách nhé!” Tôi nói rằng: “Cậu là đảng viên mà cậu đã thôi sinh hoạt, cậu còn chẳng phụ trách, mình là đảng viên đang sinh hoạt thì mình phụ trách thế nào được? Mình tham gia với cậu thế cũng là quá rồi còn gì, cậu đã biết kỷ luật của Ðảng như thế, thì làm sao tham gia được?” Sau hai anh em bàn với nhau – thì sáng kiến này là của Ðang – Ðang bảo: “Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm đến mời cụ Phan Khôi. Thì Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay. Sau đó vì cụ Phan Khôi với tôi vốn có những quan hệ đặc biệt và cụ vốn biết tôi là người phụ trách chính trong tờ báo, thì tôi phải đến gặp cụ ấy. Tôi có nói với cụ Phan Khôi rằng: “Tôi phải nói thật với bác, tổ chức của báo thì nó không như một tờ báo chính thống đâu, nó lung tung lắm, cho nên tôi không thể nào đem tất cả các bài đến để cho bác duyệt được, với tư cách bác là chủ nhiệm tờ báo.” Thế là ông Phan Khôi trợn mắt lên, nhìn tôi và nói rằng: “Ông buồn cười thật! Tôi đứng ra là tôi chịu trách nhiệm chứ, thế còn tôi tín nhiệm các ông, các ông làm, chứ tôi, làm sao tôi làm được!” Riêng việc ấy tôi rất phục ông. Tôi rất trọng thái độ của Phan Khôi. Mặc dầu ông Phan Khôi không có lãnh đạo trực tiếp gì tờ Nhân Văn cả nhưng trong thâm tâm tôi, bao giờ tôi cũng coi ông là người lãnh đạo tờ Nhân Văn. Do thái độ tự trọng của ông ấy. Một thái độ tốt của ông như thế. Chứ còn báo chí cứ nói rằng ông Phan Khôi lãnh đạo Nhân Văn thì quả thật ông Phan Khôi không làm gì trong tờ Nhân Văn cả, cái đó là rõ ràng. Nhưng mà nguyên cái việc một người dám đứng lên chịu trách nhiệm một việc tầy đình như thế, thì việc ấy đáng phải đề cao mới được. Nhưng mà cái gì phải rõ ràng: Ông Phan Khôi không dính gì đến công việc hàng ngày của báo Nhân Văn cả. Chỉ lúc nào có việc gì lớn lắm tôi mới nói với ông ấy thôi, còn công việc là do chúng tôi làm cả.

T.K.: Nhưng thưa anh, tờ Nhân Văn số 1 có đăng bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi, thì bài này cũng mạnh lắm chứ ạ?(thật ra bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi đăng ở Giai Phẩm Mùa Xuân)

L.Ð.: Vâng, ông Phan Khôi, đó là ông ấy chịu trách nhiệm về bài viết của ông ấy thôi. Ông Phan Khôi từ xưa đến nay vốn là người viết văn thì ai cũng biết là ông ấy nói rất mạnh mà ông nói thì không bao giờ ông ấy rụt tay rồi. Nhưng mà, tôi nói thế này: ở trong tờ Nhân Văn số 1, có một bài của ông Phan Khôi, một bài của Hoàng Cầm nói về Trần Dần và một bài thơ Tự tử của tôi đăng như bài xã luận. Ðó là ba bài sau này gây nhiều tiếng vang nhất ở Hà Nội đó. Nhất là cái bài Những người tự tử. Tôi nói thế không phải để hạ thấp vai trò của ông Phan Khôi mà tôi nói thế là tôi đề cao vai trò của ông Phan Khôi rất ghê, nhưng mà đồng thời mình cũng phải rõ ràng, không nên có những lẫn lộn trong những người làm việc, chắc là chị hiểu ý tôi chứ?

T.K.: Dạ, thưa anh còn một người nữa mà trong cuốn sách Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận của Nxb Sự Thật in năm 1959, thì họ coi đó là một trong những thủ phạm rất nguy hiểm, đó là chị Thụy An. Theo anh vai trò của chị Thụy An trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là như thế nào? Bởi vì cho đến nay thì mỗi người nói một cách khác nhau, thí dụ như là anh Nguyễn Hữu Ðang thì có lần anh đã bảo là bà ấy không thuộc phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, vậy theo anh, chị Thụy An đã làm gì trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ?

L.Ð.: Tôi phải đính chính một điểm mà mọi người đều hiểu lầm: Chị Thụy An chưa bao giờ ở trong Nhân Văn Giai Phẩm cả, đó là dứt khoát. Tại vì khi tôi thay mặt anh em làm Nhân Văn Giai Phẩm, thì tôi có đề ra mấy nguyên tắc mà tôi cho là rất nghiêm khắc: Một là, tất cả những người viết cho Nhân Văn Giai Phẩm phải đều là những người kháng chiến trở về. Lẽ dĩ nhiên là không phải mình phân biệt đối xử gì giữa anh em kháng chiến với anh em trong thành đâu, nhưng vấn đề Nhân Văn nó là vấn đề nguy hiểm, nếu có anh em trong thành viết, người ta sẽ dễ gây những lẫn lộn lắm. Hai là, không được nhận bất cứ số tiền nào của tất cả các nhà xuất bản. Tại vì lúc đó các nhà xuất bản đến ủng hộ tiền rất nhiều. Lẽ dĩ nhiên chị Thụy An là bạn của tôi mà tôi rất kính trọng nhưng chị Thụy An là người ở trong thành.

T.K.: Thưa anh, anh vừa nói là các anh không lấy tiền của bất cứ nhà xuất bản nào muốn giúp đỡ Nhân Văn, như vậy anh Trần Thiếu Bảo, chủ nhà xuất bản Minh Ðức phải là một người nhiều tiền lắm thì mới có thể bỏ ra để in Nhân Văn, Giai Phẩm và các tờ báo khác chứ ạ?

L.Ð.: Ðó là một sự lầm lẫn. Anh Trần Thiếu Bảo cũng không có nhiều tiền gì cả. Anh ta cũng là người tháo vát thôi. Mà anh ta từ kháng chiến về, Trần Thiếu Bảo chỉ có cái vỏ thôi, chứ Trần Thiếu Bảo làm gì có tiề! (cười). Nếu anh ấy có tiền thì anh ấy đã bị đi tù nhiều rồi. Anh ấy có một xu nào đâu! (cười). Nhưng mà anh này giỏi lắm, anh ấy đi mua giấy, mua chịu, việc nhà in anh ấy rất giỏi. Hơn nữa anh Trần Thiếu Bảo là một nhà in ở kháng chiến về. Việc quản trị tờ Nhân Văn là do anh Ðang lo, tôi không có thì giờ lo việc ấy lắm nhưng mà thế này: nói chung là chúng tôi đều mua chịu giấy báo và sau đó thì hoặc là anh em vay nợ để mua giấy báo và in chịu và bán xong thì lại giả nợ. Ðó là mình không lấy tiền nhưng mình lấy sự ủng hộ. Và cái việc ấy phải nói đến vai trò của anh Ðang. Anh Ðang là trước anh ấy hoạt động ở giới văn hóa trong nội thành, cho nên anh ấy quen rất nhiều những người làm văn hóa và những cơ sở in ấn ở nội thành. Ðó là nguyên tắc đề ra thế, còn có vi phạm hay không thì cái đó tôi cũng chưa được kiểm tra một cách rõ rệt lắm.

T.K.: Thưa anh bây giờ trở lại câu chuyện chị Thụy An một chút. Thưa anh người ta buộc chị Thụy An vào những tội gì?

L.Ð.: Tôi nhắc lại một lần nữa là chị Thụy An chưa bao giờ ở trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cả. Nhưng chị Thụy An rất thân với anh em trong Nhân Văn Giai Phẩm và đặc biệt là thân với tôi. Người ta buộc tội chị Thụy An, người ta cứ buộc tội mập mờ thế thôi, nhưng tội chính của chị Thụy An là thế này: Là gián điệp cài lại để lũng đoạn nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Nhưng cho đến khi tôi biết thì tôi cũng chẳng thấy chị ấy viết bài nào cho Nhân Văn Giai Phẩm cả. Thế mà chị ấy đối với tôi thì lại rất quý, chị ấy luôn luôn mua đồ đạc cho tôi, cho vợ con tôi, và tôi cũng chẳng thấy chị ấy bàn với tôi về việc viết một bài nào cho Nhân Văn Giai Phẩm cả. Thế cho nên việc ấy tôi cho cũng là một cái oan rất lớn.

T.K.: Người ta buộc tội chị ấy là gián điệp, nhưng theo anh, anh rất thân với chị ấy thì anh thấy chị ấy có là gián điệp không?

L.Ð.: Tôi có thể bảo đảm 100% chị ấy không phải là gián điệp. Tại vì thế này: Nếu là gián điệp thì phải có chứng cớ chứ! Chị nhận tiền của ai? Nhận tiền ở đâu? Liên lạc với ai? Cho đến bây giờ tôi vẫn thấy đó là một câu hỏi mà nhà nước chưa trả lời tôi được. Chưa có chứng cớ thì làm sao có thể kết luận người ta là gián điệp được. Thì cứ cho tôi là người mù mờ đi, tôi bị chị mua chuộc đi. Tôi nhớ lại tất cả cuộc đời của tôi, thì chị ấy chưa mua chuộc tôi lần nào cả. Và chị ấy chỉ giúp đỡ tôi rất nhiều. Cho nên đến bây giờ tôi thấy là: Riêng về trường hợp chị Thụy An, tôi vẫn rất ân hận. Tại vì chúng tôi đã được phục hồi nhưng chị Thụy An chưa được phục hồi gì cả. Mà một trong những tội lớn nhất của chị ấy là mua chuộc tôi. Thì như các bạn đã biết, tôi chưa từng cảm thấy bị mua chuộc mà chắc cũng chưa ai mua chuộc được tôi. Cho nên tôi thấy riêng tôi bây giờ nói những dòng này, tôi vẫn khao khát và thiết tha có một dịp nào đó, người ta phục hồi chị Thụy An một cách chính thức. Không có thì riêng tôi, tôi đối với chị Thụy An, tôi vẫn cho là món nợ. Còn về chị Thụy An, tôi phải nói thế này: Chị Thụy An là một người rất giỏi. Chị ấy là một trong những cây bút nữ đầu tiên của Việt Nam. Mà theo tôi, chị Thụy An nói kín hở cho tôi biết, thì chị ấy đã từng tham gia kháng chiến! Việc liên lạc với kháng chiến trong thời ấy thì mình mất mối là chuyện bình thường, mà mất mối thì mình không thể chứng minh được. Bây giờ cũng đã lâu rồi, đã gần 50 năm rồi. Tôi thấy chúng ta có thể mở những kho tài liệu ra để buộc tội hoặc minh oan cho một người cho rõ ràng và khi mình đặt rõ ràng về phận vị rồi thì mình phải trả lại danh dự cho người ta. Và lúc đó chúng ta hãy bàn đến vấn đề chị Thụy An đóng góp gì trong cái phong trào thời ấy. Lúc đó chúng ta có dủ bình tĩnh hơn để bàn về vấn đề này. Riêng tôi thì không bao giờ tôi quên công của chị Thụy An đối với tôi cả.

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nội dung báo Nhân Văn và sự đình bản tờ Nhân Văn – Pv Lê Đạt

Tháng Tư 26, 2008 at 5:42 chiều (. Lê Đạt, . Nguyễn Hữu Đang, Nhân Văn Giai Phẩm)

Download file Audio

Nguồn Thụy Khê

Ba “điểm nóng” trong tờ Nhân Văn số 1: Bức tranh Nguyễn Sáng vẽ Trần Dần với vết sẹo cứa cổ, bài “Con người Trần Dần” của Hoàng Cầm và bài thơ dài “Nhân câu chuyện mấy người tự tử” của Lê Ðạt đăng trọn một trang báo lớn. Ðó là ba yếu tố sau này trở thành biểu tượng của tờ Nhân Văn số 1. Một mặt khác, Nhân Văn còn có những bài xã luận chính trị, đòi hỏi tự do dân chủ, ký tên Người Quan Sát. Vậy Người Quan Sát là ai? Nguyễn Hữu Ðang và Lê Ðạt là hai thành viên của Nhân Văn bị buộc tội nặng nhất, trong một bản cáo trạng, người ta xác định Lê Ðạt như sau:”Là một người chủ chốt của báo Nhân Văn, tham mưu cho cả tờ báo, tự tay sửa chữa nhiều bài, đả kích chế độ ta rất là cay độc”.

Hôm nay, nhà thơ Lê Ðạt sẽ nói rõ vai trò của ông và ông Nguyễn Hữu Ðang trong tờ Nhân Văn và lý do nào đã khiến Nhân Văn bị đóng cửa.

Thụy Khuê: Thưa anh, khi báo Nhân Văn số 1 ra đời thì dư luận công chúng đã đón nhận nó như thế nào?

Lê Ðạt: Ðời tôi thì chưa bao giờ tôi thấy một tờ báo mà được hoan nghênh như thế. Tức là khi số 1 Nhân Văn, từ nhà in Xuân Thu ra đến Nhà Hát Lớn, vào khoảng độ gần 2 cây số, thì có khi người bán báo phải đi đi về về đến 10 lần để lấy báo, tại vì hết ngay và người ta chen ra đường người ta mua, thậm chí người ta đưa tiền ra mà không ai lấy tiền trả lại cả! Lúc đó tôi đứng đấy tôi nhìn thì tôi mới thấy đúng là ” ngày hội của quần chúng”, không biết ngày hội ấy có kéo dài nhiều không nhưng đúng là ngày hội của quần chúng thật, tức là: không thể đi được! Bản thân tôi, tôi cũng không đi được. Cứ ra thì người ta lấy hết báo, lại vào, lại cứ liên tục như thế mà chẳng phải quảng cáo gì cả. Số 1 báo Nhân Văn ấy, sau khi nó ra rồi, đi đâu tôi cũng thấy người ta nhắc lại hai câu thơ của tôi:

Ðem bục công an đặt giữa trái tim người

Bắt tình cảm ngược xuôi theo đúng luật đi đường nhà nước

Nhất là sinh viên ủng hộ rất nhiều. Tờ báo Nhân Văn số 1 lập tức là phải in lại sau đâu có một hai ngày gì đó. Hình như báo nhà nước lúc đó cũng chưa có chuẩn bị đối phó trước một hiện tượng đột ngột như thế, sau này, sự đối phó đến sau, thì lúc đó tất cả các báo, nhất là báo Nhân Dân, thường xuyên phản pháo. Ở trên báo Nhân Dân đã đành, còn các đoàn thể đều học tập vấn đề Nhân Văn cả. Nhưng vì lúc đó tình hình bên Trung Quốc vẫn chưa có gì xẩy ra cả, người ta vẫn trăm hoa đua nở, người ta vẫn trăm nhà đua tiếng thành ra ở Việt Nam vẫn vừa nghe ngóng mà cũng thấy rằng bên Trung Quốc chưa động tĩnh gì cho nên vẫn tiếp tục để cho tờ Nhân Văn ra đời.

T.K.: Thưa anh, anh và anh Ðang bị kết tội khá nặng nề về tờ Nhân Văn, người ta coi anh là một cột trụ. Vậy xin anh cho biết thật rõ anh đã làm gì trong tờ Nhân Văn, về vai trò của anh và anh Nguyễn Hữu Ðang.

L.Ð.: Ðến số sau thì tình hình càng ngày càng phức tạp, lúc đó không thể nào dừng lại ở vấn đề văn nghệ được nữa; tại vì tình hình đấu tranh ở Ðông Âu đang nổi lên, thì Nhân Văn phải có ý kiến. Thế là chúng tôi phải ra hẳn một số về Ba Lan – Hung Ga Ri và ra hẳn một số về Ba Lan. Những số đó tôi phải làm hết sức vất vả. Bây giờ tôi phải nói cái việc tôi làm trong báo Nhân Văn: tại vì tôi phải chịu trách nhiệm với anh em Giai Phẩm, là phải lo về phần chính trị của báo Nhân Văn. Mà ở trong cái chính trị ấy thì phải chú ý đến nhất bài xã luận của anh Nguyễn Hữu Ðang. Tôi không hiểu anh Ðang nghĩ gì, nhưng anh Ðang có cách làm việc rất đặc biệt và tôi thấy chưa ai làm việc như thế cả, tức là anh ấy viết bài xã luận thì anh ấy viết rất lâu, mà mỗi lần anh đưa đến nhà báo cho tôi thì anh ấy chỉ đưa một đoạn thôi, đến giờ chót in báo thì anh ấy mới đưa đoạn cuối cùng. Tôi không biết anh ấy nghĩ gì, nhưng anh ấy nói rằng: “Moa viết vội lắm, moa viết khó lắm.” Vì thế đêm nào in báo tôi cũng phải thức để đợi xem câu chót của bài xã luận anh ấy như thế nào, thành ra rất vất vả. Mà anh em cãi nhau ở nhà in rất nhiều, và không thể làm thế nào được tại vì cách làm việc của anh ấy như thế thì tôi cũng phải chịu thôi. Thế đến số Ba Lan – Hung Ga Ri thì Ðảng và nhà nước đã khó chịu lắm rồi. Cái bài nói về bài học Ba Lan Hung Ga Ri tuy ký tên là Người Quan Sát nhưng chính là tôi viết. Tại vì tôi với Ðang đều ký tên là Người Quan Sát cả, nhưng về hai bài ấy, anh Ðang có nói: “Toa viết thì toa phải nhận”, vậy tôi xin chính thức nhận ở đây! (cười).

T.K.: Trong hai bài đó anh đã viết những gì?

L.Ð.: Lúc bấy giờ quan niệm của Ðảng cũng như của phe cộng sản là như thế này: Bọn Mỹ và bọn phản động nó kích động thì mới xẩy ra cái vụ Ba Lan Hung Ga Ri, thì tôi có nói đại ý rằng: “Cái đó không phải, tức là xuất phát tự ta, ta bậy quá cho nên tụi kia nó mới nhúng vào được, chứ nếu ta tử tế thì không việc gì nó nhúng vào được cả. Cho nên, việc thứ nhất ta không nên sợ vì chúng nó can thiệp mà ta không chỉnh đốn việc của ta”. Ðó là việc mà mọi người trong các báo chính thức rất khó chịu và họ vẫn cho tôi là lẫn lộn ta địch. Nhất là bấy giờ đại sứ Ba Lan cũng viết thư phản đối tôi, nói là: “Ông lẫn lộn giữa Ba Lan và Hung Ga Ri. Hung Ga Ri khác, Ba Lan khác.” Cho nên tình hình lúc đó phức tạp lắm chứ không phải là đơn giản. Nhưng đến bây giờ tôi cũng không thay đổi ý kiến: “Nếu mình không làm bậy thì đế quốc và những thế lực thù địch cũng không làm gì được cả. Bậy là chính tự ta”. Ðấy tôi xin trả lời chị tóm tắt bài tôi viết như thế, tức là đi ngược lại với nhận định của Ðảng lúc bấy giờ.

T.K.: Thưa anh, báo Nhân Văn số 6 là số đưa đến sự đóng cửa của tờ Nhân Văn, vậy bài gì trong số 6 đã đưa đến cơ sự này?

L.Ð.: Số 6 thì thế này. Số 6 thì anh Ðang cũng như thường lệ, anh ấy vẫn đưa cho tôi từng mẩu một. Tôi có xem đến các chỗ, kể cả biểu tình, nhất là cái quyền được biểu tình thì tôi có xem kỹ lại. Về vấn đề  biểu tình ấy tôi thấy là cái quyền biểu tình cũng đơn giản thôi: vì trong các nước xã hội cộng hòa thì bao giờ cũng có biểu tình, quyền biểu tình là bình thường. Tôi xem kỹ lại và tôi hỏi Ðang: “Ông viết thế này, ông đã nghĩ kỹ chưa?” Thì Ðang đưa cho tôi xem bản hiến pháp Trung Quốc, tôi cũng thấy là đúng có những chữ ấy thật, mà lúc đó cũng vội quá, tôi không kịp nghĩ đến một ẩn ý gì của anh Ðang, và tôi cũng không biết anh ấy có ẩn ý hay không. Cái đó chỉ có anh Ðang biết thôi, mình làm báo thì mình chỉ xem nếu không có lỗi gì thì mình phải cho thông qua. Và tôi cũng đồng ý cho thông qua bài xã luận ấy. Thế nhưng cái bài xã luận ấy khi đang in sous presse thì bị ách lại. Và ở trên nói rằng Nguyễn Hữu Ðang hô hào biểu tình. Lúc đó, riêng tôi, tôi phản đối ý kiến đó, đấy là mình đang nói về hiến pháp Trung Quốc cơ mà, chứ có phải mình nói đến vấn đề chung chung đâu. Mà bây giờ, không nói về ý định tác giả, cái ý định của tác giả thì biết thế nào được; nhưng trên giấy trắng mực đen, tôi chưa thấy có gì chứng tỏ Nguyễn Hữu Ðang hô hào biểu tình cả.

Và tờ báo ấy, chính bị ngừng lại là vì câu của Nguyễn Hữu Ðang viết trong bài xã luận.

T.K.: Anh còn nhớ câu anh Ðang viết trong bài xã luận ấy là câu gì không ạ?

L.Ð.: Tôi không nhớ, nhưng mà thế này này: Chu Ân Lai có nói rằng: Hiến pháp Trung Quốc công nhận quyền tự do, dân chủ rộng rãi của nhân dân, kể cả quyền biểu tình. Thì tôi xem lại hiến pháp Trung Quốc cũng có thật, mà Chu Ân Lai cũng có nói thật, nhưng mà không biết cái ẩn ý như thế nào. Lúc đó, một là, tôi vội quá, tại vì bao giờ tôi cũng cập rập. Hai là, có khi anh Ðang anh ấy vô tình cũng nên. Mình không nên đổ tội cho người ta một cách không có bằng cớ gì cả. Thế thì sau đó là bị ách lại ngay. Và tôi thấy tất cả các nơi đã bắt đầu nói rằng: Tờ Nhân Văn công khai hô hào nhân dân biểu tình. Lúc ấy tôi cũng phản đối rất ghê. Như thế là tờ báo ra được 5 số, tức là đời sống của nó cũng chỉ có độ ba, bốn tháng thôi nhưng nó đã để lại một ấn tượng rất lớn trong đời sống văn hóa của nhân dân Việt Nam.

T.K.: Thưa anh, tóm lại tờ Nhân Văn bị đóng cửa chỉ vì bài viết của anh Nguyễn Hữu Ðang hay là còn có những lý do gì khác nữa?

L.Ð.: Theo tôi bài của anh Nguyễn Hữu Ðang chỉ là cái cớ thôi, chứ còn người ta định đóng tờ Nhân Văn từ lâu rồi. Nhưng nếu anh Ðang không có chủ ý gì, thì riêng việc đó, theo tôi, viết báo như thế cũng là một sơ hở. Bao giờ người ta cũng căn cứ vào cái sơ hở người ta đánh thôi, chứ còn người ta đã định từ lâu rồi. Sau tờ báo, cũng chả có ai biểu tình gì cả; vì thế tôi cũng cho là cái cớ thôi. Người ta đã định đoạt số phận của tờ này từ lâu lắm rồi. Tôi thấy tất cả các công đoàn, tất cả các cơ quan đều học tập về báo Nhân Văn từ trước khi người ta đóng cửa cơ mà, và mọi người đều nói tờ báo đó là phản động.

T.K.: Thưa anh như vậy là trong lúc anh làm tờ Nhân Văn anh còn làm cả tờ Văn Nghệ nữa?

L.Ð.: Vâng, tôi vẫn làm tờ Văn Nghệ. Và cái điểm này tôi muốn nói với chị một chuyện hơi buồn cười mà nó cũng không ra gì. Tức là khi đưa tờ Nhân Văn ra quảng cáo ở ngoài đường – Ðang thì bao giờ cũng thích quảng cáo- tôi có nói rằng: “Không thể quảng cáo tên tôi được”. Mà họ quảng cáo tên tôi ầm lên ở ngoài đường. Tôi bảo Ðang: “Tại sao cậu lại không tuân thủ … ” Thì Ðang nói: “Thế thì tao xóa đi vậy”. Nó xóa nham nhở (cười). Vẫn còn tên tôi ở ngoài đường (cười). Thế là hôm ấy tôi đến, có cả Chế Lan Viên, có Nguyễn Công Hoan, có Bùi Hiển… đứng ở 51 Trần Hưng Ðạo, trụ sở hội Văn Nghệ đó, tôi đi vào, Chế Lan Viên gọi: “Lê Ðạt vào đây.” Tôi vừa vào, Chế Lan Viên bảo: “Mày đứng đằng sau mày lãnh đạo tờ Nhân Văn phải không?” Tôi bảo: “Không, nó xóa tên tao rồi.” Chế Lan Viên bảo: “Nó xóa tên mày mà nó đăng bài thơ của mày cả một trang báo à?” Chế Lan Viên vốn là người thô lỗ, chửi luôn: “Tiên sư thằng nào lãnh đạo mà giấu mặt” (cười). Ðấy, chị thấy không khí rất căng thẳng. Căng thẳng lắm. Nhưng mà tôi vẫn bình thường, công việc tôi, tôi vẫn làm. Nhưng anh em khó chịu với tôi lắm, ở cái hội nghị đảng nào, người ta cũng nêu tên tôi, tôi trở thành một phần tử indésirable. Nhưng người ta cũng chưa có gì cụ thể đối với tôi cả. Ðến khi Nhân Văn bị cấm rồi, thì ở bên Trung Quốc người ta vẫn tiếp tục phong trào dân chủ, lúc ấy, Ðảng và nhà nước thấy rằng: Cho là cái Nhân Văn Giai Phẩm nó quá đáng đi, thì đóng cửa lại, nhưng bây giờ cũng phải thu xếp sao cho nó ổn thỏa. Và như thế là tôi không làm báo Văn Nghệ nữa, về Hội Nhà Văn làm đối ngoại. Trần Dần cũng đã ra khỏi quân đội rồi, về Hội Nhà Văn làm ban sáng tác. Mà nó lại buồn cười thế này: Khi thành lập Hội Nhà Văn ấy, vào tháng 4 năm 1957, thì khi bầu ban chấp hành -lẽ dĩ nhiên là ban chấp hành cũng không có quyền gì- lại có cả Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh mà ai cũng biết là có tham gia Nhân Văn, như thế để biết là, lúc ấy, ở trên cũng chưa có một chủ trương nào dứt khoát cả, vì họ còn mở rộng để cho Hoàng Cầm và Hoàng Tích Linh vào ban chấp hành cơ mà. Thì đủ biết rằng lúc ấy chưa có chủ trương đánh đấm gì dứt khoát cả, hình như họ vẫn muốn là: thôi, bây giờ đoàn kết nhau lại để làm được một cái gì đó tốt đẹp hơn, thì cái Hội Nhà Văn này sẽ ra đời tờ báo Văn đó.

T.K.: Có phải vì Ðảng bắt đóng cửa tờ Nhân Văn cho nên Ðảng cho ra tờ báo Văn để thay thế tờ Nhân Văn, có phải như vậy không thưa anh?

L.Ð.: Không, không, cái đó không phải chị ạ. Ðể tôi nói rõ ràng, cái đó không phải đâu. Ðảng -chị nghĩ hơi phức tạp quá và hơi tế nhị quá- chắc là Ðảng không có những bận tâm phức tạp và tế nhị như thế. Tức là sau đó thì tờ Nhân Văn bị cấm. Nhưng chị nhớ là lúc đó ở bên Trung Quốc vẫn tiếp tục phong trào Trăm Hoa Ðua Nở, Trăm Nhà Ðua Tiếng. Thì tháng 4 năm 1957 có hội nghị thành lập Hội Nhà Văn, lẽ dĩ nhiên là tờ Nhân Văn bị cấm nhưng những anh em Nhân Văn thì vẫn chưa bị gì lắm. Như tôi chẳng hạn, tôi đang chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ thì người ta chuyển tôi sang làm ban đối ngoại của Hội Nhà Văn thôi, tức là lúc bấy giờ tôi không được dính gì đến báo chí nữa thôi chứ không có một lời phê phán nghiêm khắc gì. Thành lập Hội Nhà Văn thì Hội Nhà Văn cho ra tờ báo Văn, mặc dầu, lúc đó tôi ở Hội Nhà Văn, nhưng tôi cũng không tham gia gì vào cái tờ này cả. Tại vì thế này: Tôi thì rất không thích ông Nguyên Hồng và Nguyên Hồng cũng không thích tôi. Lúc ấy Nguyên Hồng là thư ký tòa soạn của tờ báo Văn và Tô Hoài là Tổng thư ký Hội Nhà Văn, đồng thời làm giám đốc nhà xuất bản. Thì lẽ dĩ nhiên là họ cũng chẳng cần gì đến tôi.

T.K.: Thưa anh, trong tờ Văn còn có cả Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân nữa và hình như Nguyễn Tuân có viết bài gì nên tờ Văn sau đó cũng bị lôi thôi ? (Thực ra thì báoVăn số 36, bị đình bản vì bài Ông Năm Chuột của Phan Khôi)

L.Ð.: Về Nguyễn Tuân và Nguyễn Công Hoan thì phải nói như thế này: Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Tuân thì hẩu với Tô Hoài. Mà ông Tuân thì tính ông ấy khó tính, thỉnh thoảng ông ấy hay bặc sặc, thế thôi. Thế thì, khi báo Văn ra, có một chuyện gì đó, thì cãi nhau với báo Học tập, báo Học Tập là báo của Ðảng. Cãi nhau thì tôi cũng cho là bình thường thôi, Nguyễn Tuân có viết một bài trả lời trên báo Văn. Nhưng lúc đó, tình hình nó xẩy ra như thế này:

Tháng 5 năm 1957 ra báo Văn.

Cuối năm 1957 Trung Quốc đánh phái hữu, nếu tôi nhớ không lầm thì như thế. Lúc đó Ðảng mới có một thái độ dứt khoát: Người ta nói rằng báo Văn như thế là hậu thân của báo Nhân Văn và như thế phải có một cuộc học tập đấu tranh để làm tuyệt hết tất cả. Tức là ở Hội Nhà Văn, tuy Nhân Văn đã chết nhưng nọc độc của Nhân Văn vẫn còn. Và rằm tháng giêng năm 1958 thì có lớp Thái Hà đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm. Tôi phải nói với chị rằng Nhân Văn Giai Phẩm đã chết từ tháng 12 năm 1956 tức là người ta đánh như thế -nói theo kiểu pháp luật- là sai, đã hồi tố, không ai đánh một việc đã xong rồi. Tức là như thế này: Tháng giêng năm 1958 tổ chức lớp Thái Hà để đấu tranh chống Nhân Văn mà số 6 Nhân Văn thì đã chết từ tháng 12 năm 1956 rồi.

T.K.: Từ khi Nhân Văn bị đóng cửa đến lúc anh bị đưa ra lớp Thái Hà, trong suốt thời gian đó anh làm gì ạ?

L.Ð.: Khi thành lập Hội Nhà Văn thì báo Nhân Văn đã đóng cửa rồi, và thành lập Hội Nhà Văn ấy trên khẩu hiệu đoàn kết mọi người, trong đó một số anh em Nhân Văn cũ cũng tham gia, như anh Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, và họ ra tờ báo Văn, thì báo Văn họ làm với nhau, chứ tôi không dính gì đến báo Văn cả, mà anh em Nhân Văn thì đã tan nát mỗi người một nơi. Và tôi phải nói với chị điều này nữa: Tháng 5/1957, khi ra tờ báo Văn thì tôi vẫn có chân trong Ðảng. Ðến tháng 7/1957 tôi viết một bài thơ dài tên là Cửa hàng Lê Ðạt, trong lúc ấy, là giữa cao trào cải tạo tư sản miền Bắc. Bài Cửa hàng Lê Ðạt chưa in thì đã có nhiều người nói lắm rồi, đi đâu người ta cũng xì xào: “Lê Ðạt nó sắp sửa nổ một trái bom”. Lúc ấy, in ở nhà Xuân Thu, đang in, tôi thấy Việt Dung -Việt Dung là một cán bộ của sở Văn Hóa- Việt Dung bảo tôi:

-Sao lúc nào cậu cũng lôi thôi thế!

-Cái gì mà lôi thôi?

– Nó cấm rồi?

– Cấm cái gì?

– Thế cậu không biết à? Nó biểu tình rồi. Nó ngừng không in quyển của cậu nữa.

Tôi chạy xuống thì thấy bản thảo người ta cũng lấy rồi, gỡ hết cả chữ rồi, không còn gì nữa. Tức là khi đang in sous presse, thì người ta vận động công nhân -chả biết có vận động không- tự nhiên thấy công nhân đứng lên phản đối, ngừng, không in nữa, và nói rằng: “Tác phẩm này đi ngược với quyền lợi của công nhân!”

Sau cái Cửa hàng Lê Ðạt ấy, người ta vu tôi là gì? Là giữa cao trào cải tạo tư sản mà Lê Ðạt viết bài Cửa hàng Lê Ðạt là tiếp tay với bọn tư sản. Lập tức người ta triệu tập tôi đến hội nghị chi bộ. Lúc này tôi chính thức bị khai trừ khỏi Ðảng Cộng sản Việt nam, tức là vào khoảng tháng 7 năm 1957.

Sở dĩ tôi phải nói chỗ đó cho rõ vì thế này: Lớp đấu tranh Thái Hà có hai lớp. Theo thói thường của Ðảng, bao giờ họ cũng tổ chức hai lớp: Một lớp vào tháng hai, năm 1958, để chuẩn bị cho các đảng viên. Và lớp thứ hai, tháng ba, năm 1958 cho tất cả mọi người. Thái Hà là chỗ gần lăng ông Hoàng Cao Khải, đó là trường công đoàn và ở đó người ta tổ chức một lớp đấu tranh ghê gớm nhất đối với Nhân Văn Giai Phẩm. Sau này mọi người đều nhắc đến nó và gọi là lớp Thái Hà.

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nguyễn Hữu Đang và Nhân văn Giai phẩm

Tháng Tư 25, 2008 at 6:29 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

Đặng Tiến

Nguồn Văn hóa Việt

VAI TRÒ CHỈ ĐẠO BÁO NHÂN VĂN

Báo giới ngoài nước đều nhất loạt ghi nhận vai trò chủ yếu của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Nhân văn Giai phẩm (1956-1958).

 

Mạng lưới Diễn Đàn gọi ông là lãnh đạo, Talawas cho là chủ chốt, mạng Nhịp Cầu Thế Giới dùng từ thủ lĩnh. Tài liệu thời chửi bới Nhân văn Giai phẩm tại Hà Nội, cũng nói vậy. Báo Nhân Dân, dưới ngòi bút Như Phong khẳng định Nguyễn Hữu Đang trực tiếp chỉ đạo từ đầu đến cuối công cuộc phá hoại bằng báo chí ấy (12-5-1958).

Hồng Vân, bút danh của Hoàng trung Thông, còn chi tiết và chì chiết hơn: “Ngay từ số đầu, tờ Nhân Văn đã lộ rõ là một tờ báo chính trị. Bề ngoài do Phan Khôi và Trần Duy chủ trương, bề trong chính một tay Nguyễn Hữu Đang lo liệu, từ tiền bạc đến bài vở.”

“Phần lớn những bài quan trọng đều do hắn trông coi và sửa chữa, hoặc đội tên người khác để viết.” (Báo Văn Nghệ, số 12 tháng 5-1958  )
Mạnh Phú Tư cũng viết đại khái như vậy: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, tìm giấy và biết bài nhưng lại ký tên người khác…” (Báo Độc Lập, 24-4-1958).

Nguyễn Hữu Đang là đầu não của tạp chí Nhân Văn. Số 1 ra ngày 20-9-1956, được Tố Hữu cho là lá cờ phản cách mạng, đánh thẳng vào Đảng và nhà nước, chống lại nền chuyên chính dân chủ nhân dân (…)

“Trong khi cuộc bạo động phản cách mạng đã nổ ra ở Hung ga ri, càng như đổ dầu vào lửa (…) Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại…” (Báo cáo 4-9-1958, sau khi báo đã bị đóng cửa sau 5 số).

TỘI PHÁ HOẠI CHÍNH TRỊ

Do đó, Nguyễn Hữu Đang bị quy vào tội “phá hoại chính trị”, một tội trạng hết sức trầm trọng dưới chế độ Cộng Sản. Ông bị bắt năm 1958 và năm 1960 lãnh 15 năm tù, là cái án nặng nhất so với các bạn cùng liên lụy đến “vụ án Nhân văn Giai phẩm”.

 

Bị biệt giam ở Hà Giang, được phóng thích 1973 theo Hiệp Định Paris, Nguyễn Hữu Đang là người Việt Nam duy nhất không nghe tiếng máy bay, không biết có chiến tranh Việt-Mỹ.

Nhưng người đọc ngày nay vẫn tò mò: sự kiện diễn biến ra sao? Sao chỉ vì dăm ba bài báo, mà tội trạng và bản án nặng thế ?

Theo lời “tự thú” của Trần Dần, một trong vài ba nhà văn đầu tiên trong quân đội đã phát động phong trào đối kháng từ đầu 1955 : “Đến lớp học 18 ngày, Nguyễn Hữu Đang từ lâu nằm phục xuống, sau nhờ cơ hội này đứng dậy phất cờ, nếu không có Đang sẽ không có tham luận với những đề nghị : gặp Trung Ương, ra báo, v.v…. và cũng không có tờ Nhân Văn” (báo Văn Nghệ số 12 , tháng 5-1958).

“Tự thú” là những lời bị cưỡng bách, nhưng chúng ta thử lần theo đó để tìm lại chuỗi sự kiện.

LỚP HỌC 18 NGÀY

Lớp học 18 ngày, từ 1 đến 18 tháng 8-1956 là một đợt học tập do Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ thuật triệu tập tại Hà Nội, gồm hơn 300 cán bộ tham dự trong giới văn nghệ và khoa học xã hội.

 

Mục đích chính thức là để nâng cao trình độ lý luận, thực tế là để uốn nắn, rèn cặp giới văn nghệ, nhưng kết quả sẽ hoàn toàn ngược lại.
Lớp học 18 ngày xảy ra trong một hoàn cảnh chính trị, xã hội, tâm lý hết sức đặc biệt.

Về nội tình Việt Nam, dự án Tổng tuyển cử sau hai năm Hiệp định Genève đã không được thực hiện, viễn ảnh thống nhất đất nước sụp đổ. Việc này, lúc ấy và ngày nay, ít ai nói lên, nhưng trong ý thức hay tiềm thức người làm chính trị, người quan tâm đến đất nước, nhất định là có hoang mang.

Đồng thời là cuộc thất bại đẫm máu của Cải Cách Ruộng Đất gây công phẫn, chia rẽ sau cuộc cải tạo thương nghiệp và tư sản làm kinh tế kiệt quệ. Xã hội không biết cơ man nào tệ đoan vì không có công pháp mà chỉ có công an pháp.

Lẻ tẻ, đã có những phong trào nhân dân nổi dậy như ở Quỳnh Lưu, Nam Định và vài nơi miền núi. Trường Chinh trong báo cáo ngày 13-3-1958 trước Mặt trận Tổ quốc đã nêu lên bối cảnh này.

Cùng thời điểm này, giới trí thức biết đại khái tin tức về Đại Hội lần 20 của đảng Cộng Sản Liên Xô.

Đầu năm 1956, trong đó Khơ Rút Sốp công khai thừa nhận sai lầm của Đảng. Người dân Việt Nam tự hỏi : thế Đảng Ta có sai lầm không? Cải Cách Ruộng Đất thì sao? Báo cáo Khơ Rút Sốp lại yêu cầu Đảng, Nhà nước, Công Đoàn, … phải tôn trọng luật pháp Xô Viết.

Vậy Việt Nam thì sao?

Ngoài ra, còn có tin những phong trào dân chủ nổi dậy ở Ba lan, Hung ga ri, (và sẽ bùng nổ vào tháng 10 sau đó).

Họa vô đơn chí : từ tháng 5-1956, Trung Quốc tung ra phong trào “Trăm hoa đua nở, Trăm nhà đua tiếng” qua diễn văn của Lục định Nhất, được một tạp chí đại học Hà Nội dịch ra từ tháng 7, và được báo Nhân Dân loan tin ngày 5 tháng 8, nghĩa là đúng vào lớp học 18 ngày.

NHÂN VĂN GIAI PHẨM, KHÁT VỌNG MỘT THỜI ĐẠI

Văn nghệ sĩ là những tâm hồn bén nhậy. Họ lại là những người chịu thiệt thòi và o ép trong cuộc sống.

Vậy trong tình hình xã hội căng thẳng, trước thời cuộc quốc tế thôi thúc, họ phải làm gì? Họ có trách nhiệm gì? Tình cờ họ được tụ họp đông đảo ở lớp 18 ngày, nên có sự đồng thuận về mặt tư tưởng hay tâm cảm.

Nguyễn Hữu Đang nhớ lại : “Ở thời đó thì tư tưởng gọi là đấu tranh phê bình của anh em văn nghệ cũng lên cao lắm. Thành thử tư tưởng đấu tranh của tôi gặp tư tưởng đấu tranh của anh em, cho nên cuối cùng gặp nhau thành phong trào Nhân văn Giai Phẩm (…).”

“Anh em có một điểm gặp nhau là dù thế nào đi nữa cũng không thể chấp nhận đựơc cái chế độ cực quyền, chế độ toàn trị là cái biến dạng của chuyên chính vô sản.” (NHĐ trả lời Thụy Khuê, đài RFI)
Nguyễn Hữu Đang là người đứng tuổi, có uy tín, thành tích, óc tổ chức, tư tưởng chính trị, nên có khả năng tập hợp các khuynh hướng phản kháng. Trong lớp 18 ngày, đại diện cho tổ 2, ngày 26/8, ông đã đọc bản tổng kết phê phán nảy lửa , nhắc lại vụ án Trần Dần, chuyện giải thưởng văn học, nạn bè phái, chuyên quyền.

Ông nói : “Bất cứ vấn đề gì, tổ chúng tôi cũng thấy cái nút cuối cùng ở chỗ lãnh đạo.”

Thậm chí ông còn đòi hỏi, quyết liệt và cay đắng : phải làm một cuộc cải cách ruộng đất trong văn nghệ (trích theo Hồng Vân, bài đã dẫn). Nói khác đi, ý ông muốn thay đổi hoàn toàn guồng máy lãnh đạo.

Báo Nhân văn số 1 đã tóm lược bản tham luận :

1. Đường lối lãnh đạo văn nghệ của Trung ương Đảng hẹp hòi, gò bó do nhận thức không đúng về mối quan hệ giữa chính trị và văn nghệ,

2. Trung ương Đảng chưa có một chính sách cụ thể hẳn hoi về văn nghệ,

3.Tổ chức (bộ phận trực tiếp lãnh đạo văn nghệ) không hợp lý và không trong sạch, nguy hiểm nhất là có tính chất bè phái.

4.Bản tham luận này trước khi đem đọc đã được bàn tán và chờ đợi nhiều, khi đem đọc nó được hoan hô nhiệt liệt (17 lần vỗ tay dài) và sau khi đọc đã có vang dội rất lớn (tr. 5-6)

ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ: DÂN CHỦ TỰ DO

Sau đó Nguyễn Hữu Đang viết những bài xã luận, ký tên thật, bắt đầu từ Nhân Văn số 4, ngày 5-11-1956, đăng ở trang nhất. Đó là bài “Chính quy hơn nữa”, đòi hỏi một xã hội pháp trị, thi hành hiến pháp, tạo quyền hành cho ngành tư pháp, cái mà ngày nay ta gọi là xã hội công dân.

 

Số 5, ngày 15-12, trong bài “Hiến Pháp Việt Nam và Hiến Pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ như thế nào”, ông đòi thực thi hiến pháp 1946, với những quyền : tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do cư trú đi lại trong nước và ra ngoài nước.

Ông viện dẫn điều 87 trong hiến Pháp Trung Hoa 1954, thừa nhận các quyền nói trên, thêm quyền tổ chức tuần hành thị uy.
Ông còn cảnh báo: “chuyên chính với nhân dân thì cần xét kỹ. Nếu không, hậu quả sẽ tai hại lớn. Nguyên nhân sâu xa của những biến cố ở Ba Lan và Hung ga ri là vì thiếu dân chủ, tại sao lại hiểu ra là thiếu chuyên chính.”

Bên cạnh bài này, lại có bài Lê Đạt, ký tên Người Quan Sát, thông tin và bình luận “bài học về Ba Lan và Hung ga ri” về những cuộc nổi dậy vừa mới xảy ra.

Trên số 6, dự tính có bài dữ dội của Nguyễn Hữu Đang, nhưng báo bị tịch thu ngay tại nhà in. Vì vậy, tờ báo bị lên án là khiêu khích, kêu gọi biểu tình lật đổ chế độ.

ĐÔI BỜ ĐỊNH MỆNH. OAN KHIÊN VÀ VINH DỰ

Mục đích bài này là truy niệm bậc hào kiệt Nguyễn Hữu Đang, bằng cách nhắc lại chính xác và ngắn gọn vai trò chủ yếu của ông trong việc xuất bản tạp chí Nhân Văn, mà về sau để lên án, chính quyền đã đánh đồng chập choạng thành nhóm Nhân Văn Giai phẩm.

 

Thời gian từ Giai phẩm đến Nhân văn chỉ vỏn vẹn trong một năm, 1956, và “nhóm” này – nếu có thật – chỉ kết hợp trong “lớp học 18 ngày” và không thành một tổ chức nào chính thức. Do đó, những từ : lãnh đạo, lãnh tụ, thủ lĩnh… vừa là vinh dự, vừa là oan khiên thái quá cho ông.

Vinh dự phù du ; mà oan khiên đăng đẳng.

Nguyễn Hữu Đang bị tù, biệt giam trong 15 năm, sau đó bị quản thúc tại quê hương Thái Bình non 20 năm. Và trong tang lễ của ông, đại diện chính quyền đọc điếu văn còn nhắc tội trạng : “phạm sai lầm tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm”.

Trong lịch sử nhân loại, vô số người tranh đấu cho tự do, dân chủ đã bị tù đày, lưu đày, thiệt mạng, biệt tích. Nhưng không có ai sai lầm.

Sai lầm chỉ ưu đãi phía cường quyền và bạo lực.

Viết ngày 20/02/2007

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập

Tháng Tư 25, 2008 at 6:27 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

Nguyễn Hữu Đang – vị cách mạng lão thành – đã mất vào ngày 8-2, thọ 94 tuổi. Ông là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng, có cuộc đời long đong…

Cụ Mười Hương tuổi đã ngoại tám mươi, từng làm trưởng Ban Nội chính Trung ương xúc động nói với tôi giọng nghẹn ngào: “Cứ mỗi lần nhìn tấm ảnh lễ đài Độc lập dựng ở giữa Quảng trường Ba Đình, nơi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, tôi lại thương anh Đang. Lần này ra Hà Nội dự kỷ niệm thành lập Đảng và tưởng niệm anh Trường Chinh, tôi cũng có ý định cùng mấy vị lão thành ở ngoài này lo đề nghị trên tặng một tấm huân chương cho anh Đang. Vậy mà… anh ấy lại đi mất”. Những người dự đám tang cụ Nguyễn Hữu Đang đều thấy cụ Mười Hương có mặt suốt từ đầu cho đến khi ra đài hóa thân hoàn vũ.

Trong đám tang, người ta cũng loáng thoáng nghe thấy câu chữ “Nhân văn giai phẩm”. Khi gặp tôi, cụ Mười Hương nói rằng lúc xảy ra “việc đó” cụ đang ở chiến trường miền Nam, nghe tin từ ngoài vào, chuyện khác thì không bình luận nhưng riêng cái chi tiết Nguyễn Hữu Đang bị gián điệp lung lạc thì cụ không tin: “Anh Đang là người sống chung thủy và nghiêm túc lắm”.

Người được Bác Hồ trực tiếp giao nhiệm vụ

– Cách đây không lâu, người ta đã công bố trên báo chí một đoạn hồi ức của cụ Đang về mối tình duy nhất và cũng là cuối cùng cách đây đã sáu mươi năm nhưng không thành, cho đến hôm nay cụ đã mang theo xuống tuyền đài. Đó chính là thời điểm chàng trai Nguyễn Hữu Đang mới 32 tuổi, đã được Bác Hồ trực tiếp giao trách nhiệm làm người đứng ra lo tổ chức ngày Lễ Độc lập tại Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Cụ Mười Hương kể lại rằng, ngay sau khi Thường vụ Trung ương họp để thông qua văn bản Tuyên ngôn Độc lập do Bác trực tiếp soạn thảo và quyết định sẽ chọn ngày công bố vào chủ nhật, 2-9-1945, Tổng Bí thư Trường Chinh đã gặp cụ để trao đổi về việc làm sao có thể kịp tổ chức đúng thời điểm tuyên ngôn độc lập mà chính Bác Hồ đã ấn định, vì không thể chậm hơn trong cuộc chạy đua thời gian với những diễn biến của thời cuộc.

Là người hoạt động trong giới trí thức và thanh niên ở Hà Nội, chính cụ Mười Hương là người gợi ý giao việc này cho Nguyễn Hữu Đang, lúc đó là thủ lĩnh của hai phong trào đang có ảnh hưởng trong quần chúng và trí thức là Truyền bá Quốc ngữ và Văn hóa Cứu quốc. Tổng Bí thư Trường Chinh thì biết quá rõ Nguyễn Hữu Đang, một cây bút quen biết trên các tờ Thời Báo, Ngày Mới. Đời Nay thời Mặt trận Bình dân, còn cả hai phong trào trên thì Tổng Bí thư lại chính là người trực tiếp chỉ đạo cuộc vận động văn hóa và lực lượng trí thức chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.

Hơn thế, ngay tại Đại hội Quốc dân Tân Trào, Nguyễn Hữu Đang, người đã vào Đảng từ năm 1943 nhưng tham gia tổ chức học sinh của Hội Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí ở Thái Bình từ năm 16 tuổi (1929), đã được bầu vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Vì thế mà đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao nhiệm vụ cho Nguyễn Hữu Đang lo liệu công tác tổ chức ngày Lễ Độc lập với một mệnh lệnh: “Đây là sự kiện lịch sử lớn kết thúc Cách mạng Tháng Tám và khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” kèm theo một lời khích lệ đầy tin tưởng: “Việc khó mới giao cho chú!”.

Là người có kinh nghiệm vận động quần chúng và trưởng thành từ thực tế phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng tập hợp được nhân tài vật lực từ các kiến trúc sư vẽ kiểu đến người thợ mộc trực tiếp thi công, từ các nhà công thương hiến tặng vật liệu đến nhà kỹ thuật cung cấp và lắp đặt các thiết bị phóng thanh… để đúng ngày giờ ấn định, lễ đài Độc lập đã sừng sững uy nghi giữa Quảng trường Ba Đình, nhanh chóng và trật tự tập hợp hàng chục vạn người dân để buổi lễ diễn ra một cách trọng thể, an toàn và đầy khí thế của một cuộc cách mạng toàn dân.

Từ trên lễ đài ấy, Cụ Chủ tịch nước tuyên bố nền độc lập dân tộc cùng sự ra đời của chính thể Dân chủ – Cộng hòa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Và cũng từ lễ đài ấy, chiếc ấn vàng và cây kiếm tượng trưng của chế độ quân chủ Việt Nam đã được trưng ra trước quốc dân đồng bào, cáo chung cho triều đại phong kiến cuối cùng…

Buổi lễ để lại một ấn tượng mạnh mẽ đối với những vị khách nước ngoài có mặt khi đó là các sĩ quan trong đơn vị Tình báo Chiến lược (OSS) của Hoa Kỳ. Trong hồi ức của mình, A. Patti, viên thiếu tá chỉ huy trưởng OSS, đã phải thốt lên lời nhận xét về tính tổ chức cao của những người cách mạng Việt Nam, cùng sức hưởng ứng mãnh liệt của cả một dân tộc thể hiện qua buổi lễ lịch sử. Duy có một chi tiết chưa hoàn hảo, đó là kế hoạch truyền thanh trực tiếp buổi lễ tại Quảng trường Ba Đình để phát trên sóng Đài Phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã bị trục trặc, khiến cuộc mít tinh diễn ra đồng thời tại Quảng trường Norodom tại TP Sài Gòn đã không nghe được lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập qua làn sóng điện.

Nửa thế kỷ sau, tôi chứng kiến lần GS Trần Văn Giàu ra thăm Hà Nội gặp Nguyễn Hữu Đang tại một sinh hoạt của Hội Sử học Việt Nam. Cụ Giàu lớn tiếng hỏi cụ Đang: “50 năm nay tôi mới gặp để hỏi ông một câu: Tại sao hôm đó ông đã thông báo sẽ truyền thanh trực tiếp từ Ba Đình, Hà Nội mà ở Sài Gòn bắt mãi không thấy sóng khiến tôi phải đứng lên hiệu triệu đồng bào. May mà đến hôm sau mới nhận được nội dung Tuyên ngôn, soi lại thấy mình nói không sai với tinh thần của Bác và Trung ương ngoài ấy?!”.

Cụ Đang chưa kịp trả lời thì cụ Nguyễn Văn Dực, con trai của học giả nổi tiếng Nguyễn Văn Vĩnh, người phụ trách thiết bị âm thanh và phát thanh hôm đó, đỡ lời: “Thưa cụ Chủ tịch Ủy ban Lâm thời Hành chính Nam Bộ, lý do là bị trục trặc kỹ thuật, thiết bị thì cũ kỹ, đài phát sóng ở Bạch Mai mới tiếp quản, và cũng không loại trừ là có kẻ phá hoại ngầm. Hôm nay chúng tôi có lời xin lỗi cụ ạ”.

Mối tình duy nhất

Sau Ngày Độc lập, Chính phủ chính thức thành lập, Nguyễn Hữu Đang được bổ nhiệm làm thứ trưởng Bộ Thanh niên rồi thứ trưởng Bộ Thông tin Tuyên truyền… Sinh năm 1913, năm Độc lập 1945, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi, lần đầu tiên có được một ý trung nhân. Đó là một thiếu nữ con nhà trung lưu tên là Huyền Nhiên. Không khí chính trị phả ngay vào đời sống thường nhật của mọi người dân khiến cô gái nhà gia giáo ấy, chỉ thách người đàn ông của mình một điều kiện, nếu làm được sẽ coi như là đã đính hôn. Điều kiện ấy là cho cô được diện kiến Cụ Chủ tịch.

Chàng trai từng làm trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập và đang làm thứ trưởng Bộ Thông tin bèn thiết kế cơ hội để làm đẹp lòng người đẹp. Nhân dịp lễ phát động cuộc vận động ủng hộ áo ấm cho “Mùa đông binh sĩ”, người bạn gái của vị thứ trưởng được bố trí làm tiếp tân để mang tấm áo tượng trưng do một doanh nghiệp tỉnh Bắc Giang lên tặng Cụ Chủ tịch. Cô gái không những được lại gần để trao áo cho Cụ Hồ mà còn được Cụ Chủ tịch ban những lời động viên sâu sắc về địa vị của người phụ nữ trong cách mạng và trong xã hội mới…

Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những thách đố của lịch sử khiến hai người chưa kịp gặp lại nhau thì đã phải mãi xa cách.

Cụ Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng những gì đến với cụ ở tuổi “tứ thập nhi bất hoặc” rồi “ngũ thập tri thiên mệnh”… nên cuộc sống độc thân là điều không thể lựa chọn… Cho đến cuối đời, khi đã vượt quá tuổi “cổ lai hy” hai giáp, mối tình ấy vẫn là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời Nguyễn Hữu Đang.

“Sống thêm”

 Năm 1992, có một kỷ niệm đọng lại sâu sắc trong cụ. Tháng 11 năm đó, đông đảo anh chị em văn nghệ sĩ đã tổ chức thượng thọ 80 cho Nguyễn Hữu Đang tại căn phòng mới mà cụ được cấp. Cụ coi đó là cái mốc mà cuộc sống tiếp theo được coi là “thời gian sống thêm” với một quan niệm rất nhân bản: “Cầu sự bình yên trong cảnh thanh bần, tìm an ủi trong tình cảm của những người thân quen, hưởng thú vui thái độ SỐNG ĐỂ XEM” (ba chữ cuối cụ viết hoa).

Như thế là Nguyễn Hữu Đang đã có 15 năm “sống thêm”. Những năm tháng đó ngày càng có nhiều người đến thăm cụ, các phóng viên tìm đến ghi chép lại một vài sự kiện lớn mà cụ đã can dự như phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Ngày Độc lập. Một số đoạn hồi ức của cụ đã lên mặt báo. Phùng Quán đã viết những bài báo về những ngày khó khăn của cụ. Một số nhà lãnh đạo cũng quan tâm đến những chính sách đối với cụ…

Hẳn trong “thời gian sống thêm” ấy, Nguyễn Hữu Đang đã sống và xem được nhiều điều. Cụ thường ngồi im lặng rất lâu với nụ cười bình thản trên môi và ngày càng ít nói… Duy trong tầm mắt cụ luôn hướng về tấm ảnh nhỏ chụp chân dung của cụ. Ánh mắt da diết ngỡ người ngoài tưởng cụ đang say sưa soi bóng mình. Chỉ những người thân mới biết rằng lồng bên trong là tấm ảnh người phụ nữ đầu tiên và có lẽ cũng là cuối cùng trong cuộc đời của Nguyễn Hữu Đang…

“Việc khó mới giao cho chú”

Một tháng trước ngày cụ mất, tôi có mặt trong cuộc hội ngộ của ba con người mà một thời số phận đã gắn kết họ với nhau. Hai cụ nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt đến thăm cụ Nguyễn Hữu Đang (không biết nên gọi là nhà gì, nhớ đến ngày 2-9-1945 có người gọi cụ là “nhà tổ chức”!).

Cụ Đang thì đã nằm một chỗ từ lâu, cụ vẫn còn sống nhưng có lẽ không còn xem mà cũng chẳng còn nghe được gì nữa. Cả ba người ngồi bên nhau trầm ngâm, thi thoảng là một câu gọi khẽ: “Đạt đây Đang ơi!”, “Cầm đây Đang ơi!”.

Ngày hôm đó, những ai quan tâm đều biết hai nhà thơ đều đã có quyết định tặng Giải thưởng Nhà nước năm nay. Nhà thơ còn có tác phẩm để đời. Còn “nhà tổ chức” thường chỉ biết làm cho cái chung, cho người khác nên về cuối đời thường dễ là người “trắng tay”. Không biết có phải vậy hay không? Một tấm huân chương muộn màng trong ý tưởng của những người nặng lòng cũng không thành hiện thực? Thời gian sẽ trôi đi. Lịch sử mãi mãi sẽ chói ngời sự kiện ngày Lễ Độc lập 1945, nhưng còn mấy ai biết đến một con người từng được Cụ Hồ Chí Minh khích lệ: “Việc khó mới giao cho chú !”.

 

Dương Trung Quốc

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007)

Tháng Tư 25, 2008 at 6:24 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

 

Nguồn Trang Diễn Đàn

Ông Nguyễn Hữu Đang đã từ trần ngày 8.2.2007 tại Hà Nội, thọ 94 tuổi. Lễ tang, do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức, sẽ được cử hành sáng thứ bảy 10.2 tại Nhà lễ tang quân đội, 5 Trần Nhân Tông. Ông thuộc thế hệ “lão thành cách mạng”, tên tuổi đã đi vào lịch sử Việt Nam thế kỉ XX với tư cách một nhà hoạt động văn hoá (Hội Truyền bá Quốc ngữ), cách mạng (Văn hoá Cứu quốc, thứ trưởng Bộ thông tin Tuyên truyền đầu tiên của chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà, người tổ chức Lễ đài Độc lập 2.9.1945) và lãnh đạo phong trào Nhân văn Giai phẩm (1956-1958). Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông là người lãnh án tù nặng nhất (15 năm). Năm 1973 ra tù, ông bị quản chế nhiểu năm ở làng quê Thái Bình (xem bài của Phùng Quán cùng ngày 8.2.2007).

Nguyễn Hữu Đang sinh năm 1913 ở làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, Thái Bình. Năm 1929 tham gia Học sinh hội của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Cuối năm 1930 bị bắt giam, nhưng toà án chỉ quản chế tại nguyên quán vì còn vị thành niên. 1932-36 : học trường Sư phạm Hà Nội.

1937-39 : tham gia Mặt trận Dân chủ Đông Dương, viết cho các báo Thời báo, Ngày mới của Mặt trận, Tin tứcĐời nay của Đảng cộng sản (cùng với các ông Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính, Phan Bôi, Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh).

1938-45 : tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ, tổ chức và chủ trì Hội nghị giáo khoa toàn quốc (hè 1944).

1943-46 : gia nhập Đảng cộng sản Đông Dương (1943), tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hoá Cứu quốc, tham gia Ban trị sự Tổng hội cứu đói.

1945 : tại Đại hội Tân Trào (tháng 8) được bầu vào Uỷ ban Giải phóng Dân tộc Việt Nam (tức là Chính phủ lâm thời khởi nghĩa). Trong Chính phủ lâm thời : thứ trưởng Bộ tuyên truyền, rồi thứ trưởng Bộ thanh niên. Trưởng ban tổ chức “Ngày Độc lập”.

Thủ bút Nguyễn Hữu Đang (tư liệu Diễn Đàn)

1946-1954 : công tác tuyên truyền (Trưởng ban tuyên truyền xung phong trung ương của Tổng bộ Việt Minh), báo chí (báo Toàn dân Kháng chiến của Mặt trận Liên Việt), Trưởng ban Thanh tra Nha Bình dân học vụ.

1954-1958 : biên tập báo Văn Nghệ.

Cuối 1956 : biên tập Nhân Văn, cộng tác với Giai Phẩm (bản lí lịch viết tay năm 1993, ghi : “những hoạt động này là tự ý làm, ngoài công tác, vô tổ chức”).

4-1958 : Bị bắt giam.

1960 : Bị kết án 15 năm tù

2.1973 : Sau Hiệp định Paris, được trả tự do, nhưng bị quản chế ở quê nhà Thái Bình (cùng năm 1973 này, những người bị bắt năm 1967-68 trong vụ “xét lại chống Đảng” cũng được trả tự do và cũng bị quản chế ít nhất 3 năm).

Trong thời gian 1960-73, Nguyễn Hữu Đang bị giam ở Hà Giang, gần sát biên giới Trung Quốc, nên không bao giờ nghe thấy tiếng máy bay Mĩ, và ông cũng không được thông tin gì về cuộc kháng chiến chống Mĩ.

1989 : Bắt đầu được “hồi phục” một phần. Từ năm 1990, hưởng lương hưu trí. Từ năm 1993 về sống ở Hà Nội. Tạp chí Xưa & Nay tổ chức về Ngày độc lập 2-9-1945, đề cao vai trò của ông Nguyễn Hữu Đang. Nhưng “vụ Nhân Văn” vẫn nằm trong vùng cấm.

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Tháng Tư 25, 2008 at 6:18 chiều (. Nguyễn Hữu Đang, . Phùng Quán)

Trích Ba phút sự thật – Phùng Quán

Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc. Đầu năm 1990, Đại hội kiến trúc sư toàn quốc, tôi có gửi một bức điện 300 chữ, chào mừng Đại hội. Mở đầu bức điện văn, tôi viết: “Nếu đất nước xây dựng một Đền đài Nghệ thuật, tôi xin được làm thủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được trải chiếu để văn nghệ sĩ ngồi. Chiếu một tôi dành riêng cho các kiến trúc sư. Vì các anh chị là những người trước tiên đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục cho xứ sở, bằng chính các tác phẩm kiến trúc của mình…”. (Ở nhà tôi, ngoài những) (1) Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn… tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà nội Mới… chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng Chín năm Một nghìn chín trăm bốn lăm. Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng mảnh được xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ – nếu chậm lại một giờ là hỏng – rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay lệ. Lòng tôi dâng trào biết bao niềm cảm xúc và suy tưởng miên man… về Tổ quốc và Nhân dân, về Cách mạng và Khởi nghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng hào kiệt đã thấm đẫm giang sơn kể từ khi trên mặt đất xứ sở Việt nam xuất hiện công trình kiến trúc mỏng manh này. Nó biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình dáng cùng với tổng chể kiến trúc của nó, đã tạc khắc đời đời vào kí ức của cả dân tộc…

Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước từ đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi… Người Hiệp sĩ vĩ đại của Nhân dân và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki… đứng trên lễ đài, mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” bất hủ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng…”

Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kì vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần… Theo ngu ý của tôi, Lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc này, số phận của cả dân tộc đã thay đổi, và số phận nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay đổi. Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ (… tôi đã trở thành) một nhà văn… Cũng từ cái mốc kiến trúc mỏng manh này, cả dân tộc đã xuất phát, bước vào cuộc trường chinh sáng láng nhất, lâu dài nhất và dữ dội nhất của thế kỉ, với gánh nặng lịch sử trên vai:

“Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”(2).

Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?
*
Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ước tìm hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó cái khôn, và trong điều kiện và hoàn cảnh trắc trở của đời mình, tôi không sao thực hiện nổi niềm mong ước đó.

Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:

Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130×210 mm, đóng dấu tròn với dòng chữ “Ngày Độc lập” và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2-9-1945 một “Ngày Độc lập”.
Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”

 
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận.
Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”

Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu như trên. Nội dung thư:

 
“Kính gửi ông Thị trưởng Hà nội,
Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2-9-1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.
Kính thư,
Nguyễn Hữu Đang”

Một thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:

 
Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. – “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá” .

Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.
***
Anh Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê nguời, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính uỷ Sư đoàn hỏi chuyện. Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của Đất nước: 2-9-1945.

 
Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”
Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang…” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá… đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình…”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”. Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.
***
Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp… sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở văn hoá và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó…”. Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”. Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi (3) rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ công tác ở đâu ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà nội… về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết…”. Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương… cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy…”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi… Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về…”. Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà… biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa… đem tiền về trả lại thôi…”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh…
*
Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa… Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – Nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống li rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn li và nói: “Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái rỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá…”. Tôi bật phì cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá… Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm li rượu nữa, giọng hào hiệp: “Li này tôi đãi cụ!… Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.
Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết…”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh. Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng… Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng… Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng… Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ – chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện “Hương cuội” của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên… Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười… “Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng… “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ…
*
Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng chỉ khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai. Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém… Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc. Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối… Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: “Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người”. Trên mặt bàn xếp kín những chai lọ, vỏ đồ hộp, hai cái đèn dầu làm bằng lọ mực Cửu Long, vài con dao làm bằng mẩu lưỡi liềm gẫy, và ba bốn cái bát hương, nắp đậy là những viên gạch vỡ. Anh chỉ nắp đậy, giới thiệu với giọng trang trọng của thuyết trình viên giới thiệu hiện vật trong các bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ… Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro… Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang – anh cười – Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái… Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”. Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách… ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”. Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà em không biết. Trên nhà em, các bạn đến chơi, hút các loại thuốc lá ngoại hảo hạng, vỏ bao vất lung tung, vợ em ngày nào cũng phàn nàn vì phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc là ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy…”. “Hàng đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”. Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà nội biếu các chú… Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô, tiếng lợn kêu âm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.
***
Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre… Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”. Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: “Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”.
Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”. “Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số  đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung(4), mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.
Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”. Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: “Em suy luận ra anh là Trưởng ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.
Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:
“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào… Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ. Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách. Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi… Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua… để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”. Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.
“Như chú biết đấy – giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội… Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”. Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng… Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền…”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của…”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.
– Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp – Nội dung như sau: ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo (… mất một dòng… ) ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận”, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó? Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ (5). Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể… Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”. Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh(6), cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ… Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v… Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút kí duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức. Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh (Các anh cần gì, chúng tôi) sẽ lo chạy đầy đủ. Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ (7), cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.
Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà”.
*
“Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thế nào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”. “Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói vá dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “Mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.
Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào chú sẽ thấy tăng lực gấp đôi, có thể đạp xe một mạch lên đến bến phà Tân Đệ”.
*
Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây… Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập” Cụ Hồ viết… còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu… Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản “Tuyên ngôn”, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng… như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”… Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đêm coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”… Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”, không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà nội… Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột ra máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học sinh… Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết… Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy…”.
Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi… Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai… Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay…”
Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm… Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:
Mặt ra giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lương
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn!

Tháng 12.1992 ( 8 )

PHẦN VIẾT THÊM
Nấn ná mãi, sáng 27 Tết tôi phải rời thôn Trà Vy trở về Hà Nội. Đạp xe ngược gió trên con đường đất sống trâu dọc bờ sông Máng, tôi bỗng thấy lạnh kinh khủng. Hai ba lần, tôi ngoái lại nhìn làn khói mỏng trên cái chái bếp, bên dưới làn khói đó là một bậc hào kiệt của đất nước đang ngồi trầm tư vì thế sự giữa một đống giẻ rách, dép lốp đứt quai, đinh còng queo, chai lọ bụi bám đáy, những cái vỏ lon bia, những mẩu sắt han rỉ chẳng biết để làm gì. Hai mắt tôi tự nhiên cay lệ. Tôi chỉ muốn quay xe lại với anh nhưng sợ anh mắng. Từ chiều hôm qua, anh giục giã tôi suốt: “áng mai chú phải về Tết nhất đến nơi. Chú không thể để cô ấy cúng tất mên một mình như cảnh nhà những người góa bụa cô đơn…”.
Đăm đăm nhìn anh, tôi tự hỏi: “Trên thế gian này, không biết còn ai cô đơn hơn anh?”. Tôi khẩn khoản: “Anh cùng về Hà Nội với em, ăn Tết cùng với nhà em, nhà anh Cung có vui hơn không?”. “Chú cứ về trước đi, chậm lắm sáng mồng hai Tết, tôi sẽ có mặt ở nhà chú hoặc ở nhà chú Cung”.
“Nhưng anh còn vướng víu gì ở đây mà không về cùng với em được?”. “Chuyến này lên Hà Nội tôi sẽ ở lại. Tôi muốn tìm gặp lại anh em thời Truyền bá quốc ngữ xem ai còn ai mất, hên hệ với những anh em hiện đang sống ở nước ngoài như Hoàng Xuân Hãn. Ông ta có công lớn lắm đấy. Ông được Hội giao soạn thảo học chữ quốc ngữ theo lối mới, làm sao cho dễ học, dễ thuộc, dễ nhớ và ông đã soạn thảo rất thành công. Tài tình nhất là ông đã vần vè hóa được cách nhận diện các chữ cái:
“i t giống móc cả hai
ngắn có chấm, t dài có ngang”

hoặc:
“O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, Ơ là thêm râu”


Tôi ngạc nhiên: “Hồi còn đi giữ trâu ở làng quê em học truyền bá quốc ngữ cũng thuộc lòng những câu vần vè đó. Nhưng em thật không ngờ tác giả của nó lại là nhà toán học nổi danh Hoàng Xuân Hãn”. “Đó chính là tấm lòng thương nước, thương dân của người trí thức chân chính”. Anh nói thêm: “Tấm lòng của họ đối với nước, với dân trong suốt như thuỷ tinh, không gợn một chút bợn đặc quyền đặc lợi. Lần này lên Hà Nội, tôi có một mục đích là tổ chức một cuộc gặp gỡ những người trước đây tham gia Hội Truyền bá quốc ngữ. Chúng tôi sẽ ôn lại hồi ức và viết hồi ký. Mà muốn làm như vậy thì phải có…
(Bài viết đến đây thì dừng vì Phùng Quán bệnh nặng không còn sức để viết tiếp)


(*) Bài viết trên được Phùng Quán viết xong tháng 12.1992, đến tháng 1.1995, trong lúc nằm trên giường bệnh, chưa hài lòng với những gì đã viết, Phùng Quán viết thêm bằng bút chì trong tư thế nằm ngửa viết lên giấy đặt dưới tấm ván treo úp xuống trước mặt ở đầu giường. Đây chính là những dòng cuối cùng của Phùng Quán. Di cảo do bà Vũ Thị Bội Trâm, vợ nhà văn Phùng Quán cung cấp (BT)

Chú thích:
(1) Bản in này căn cứ vào bản sao ảnh bản thảo 19 trang viết tay của Phùng Quán, Một vài trang chụp thiếu một hai dòng chót. Chúng tôi phải ghi (… mất một dòng… ), hoặc khôi phục đoạn câu bị mất đi, nhưng vẫn để trong ngoặc. (BT)
(2) Thơ Tố Hữu
(3) Bảy mươi tuổi xưa nay hiếm, thơ Đỗ Phủ
(4) Phùng Cung, nhà văn
(5) Họa sĩ Lê Văn Đệ ( theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong họa sư, được chính Giáo hoàng Pie Xl giao cho trang hoàng điện Vatican.
(6) Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời là thứ trưởng Bộ Xây dựng.
(7) Số len này lấy được ngày 19-8-1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng Bài. (Chú thích của tác giả)
( 8 ) Năm 1993, ông Nguyễn Hữu Đang đã được Nhà nước cấp nhà ở Hà Nội và được hưởng iương hưu. Nhưng qua bài viết này giúp cho độc giả hiểu thêm về một chi tiết cụ thể của lịch sử Cách mạng tháng Tám và tấm lòng của nhà văn Phùng Quán. (Chú thích của Ngô Minh)

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nói chuyện với Nguyễn Hữu Đang về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

Tháng Tư 25, 2008 at 6:14 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

Thụy Khuê: Thưa ông Nguyễn Hữu Ðang, trước hết xin ông cho biết thực chất của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm là gì?

Nguyễn Hữu Đang: Tôi nhớ có một lần Lê Ðạt nói chuyện với bà đấy, nói rằng là đó là một cố gắng đối thoại đầu tiên giữa những đảng viên, cán bộ, trí thức, để tìm một giải phóng tốt đẹp hơn cho xã hội. Kết cục cuộc đối thoại đó không có kết quả. Thực chất phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống -không phải chống đảng cộng sản đâu, mà đấy là chống- cái chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Statline và chủ nghĩa Mao Trạch Ðông đưa đến nhiều hiện tượng -nói là chuyên chính thì chưa đủ- phải nói là cực quyền toàn trị, nó gay gắt ghê lắm. Nó gay gắt ghê lắm! Ðảng cộng sản đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu v.v… Tất cả những cái đó đều do những cái quá tả, từ phương Bắc nó xâm nhập vào, chứ không phải chờ đến bây giờ nó mới đem cái tả khuynh hữu trí vào nước Việt Nam. Cái thời mà cụ Hồ chưa về nước và ông Trần Phú làm Tổng bí thư đó, thì làm cái cuộc gọi là Sô Viết Nghệ Tĩnh, đua ra cái khẩu hiện rất quái gở tức là “Trí, phú, địa, hào đánh tận gốc, trốc tận rễ”. Nó quá tả như thế thì còn làm sao giành được độc lập! Như thế là chia rẽ dân tộc. Lúc bấy giờ chúng tôi cũng cảnh giác, chúng tôi theo đảng cộng sản nhưng chống chủ nghĩa Staline và chống chủ nghĩa Mao Trạch Ðông. Nhưng rất tiếc là lúc bấy giờ, thế lực của Liên Sô rất mạnh, áp lực của Trung Quốc cũng rất mạnh cho nên cái đối thoại không có kết quả.

 TK: Thưa ông, từ thời Mặt Trận Bình Dân, ông đã từng là cán bộ hùng biện tuyên truyền cho Ðảng. Rồi đến năm 45, ông làm Bộ trưởng Bộ tuyên truyền cho cụ Hồ. Vậy đến lúc nào thì ông bắt đầu nghi ngờ Ðảng?

NHÐ: Tôi bắt đầu -cái tin tưởng của tôi có yếu đi- là bởi vì ban Tuyên huấn Ðảng có đưa ra một thông tri, một chỉ thị khẳng định là những đảng viên thuộc giai cấp tiểu tư sản không đáng tin cậy lắm, phải cảnh giác. Thì tôi rất buồn. Theo đó mấy tháng, thì có một cuộc chỉnh huấn. Trước khi vào chỉnh huấn, tôi biết rằng, tôi sẽ bộc lộ cái thành phần của tôi, tức là tiểu tư sản trí thức. Tôi sẽ phải nhận không biết bao nhiêu là khuyết điểm, do cái thành phần tiểu tư sản bấp bênh dao động nọ kia… Tôi có ý cũng như là giận dỗi, chán nản đó. Tôi có hỏi một người bạn cũng như là một người anh, là ông Nguyễn Khánh Toàn, tôi bảo: “Tôi muốn xin ra Ðảng thì có nên không?” Thì ông ấy khuyến khích tôi, ông ấy bảo không nên, cứ cố gắng đấu tranh bản thân, rồi khắc phục, rồi nhờ giúp đỡ của tập thể nọ kia … Ðấy! Thì cuối cùng tôi cũng không ra Ðảng. Nhưng mà từ đấy trở đi, tinh thần hăng hái của tôi cũng kém đi nhiều. Ðến khi có Cải cách ruộng đất thì tôi không  đồng ý tí nào, nhưng mà kỷ luật lúc bấy giờ nghiêm ngặt lắm. Bất cứ ai có lời nói, việc làm, cử chỉ, hay một thái độ tỏ rằng không đồng tình -chẳng nói là không đồng tình về việc lớn là Cải cách ruộng đất đâu- mà chỉ không đồng tình về một vài chi tiết nhỏ, cũng không được. Ðồng thời với việc phát hiện Cải cách ruộng đất, thì ở Liên Xô lại họp Ðại hội đảng cộng sản XX, thì lúc bấy giờ nó lại phát hiện ra rằng: Ðảng cộng sản cũng có thể phạm sai lầm! Lúc bấy giờ trong người tôi bùng lên một tư tưởng: Vì chân lý mà đấu tranh. Kỷ luật của Ðảng không thể trói buộc mình được, nếu mình thấy phải, mình cứ làm, cứ nói. Lúc bấy giờ không sợ tổ chức nhiều quá nữa. Bấy giờ mới tự tin ở mình, phải thẳng thắn đấu tranh. Ở thời đó, thì tư tưởng gọi là đấu tranh, phê bình của anh em văn nghệ cũng lên cao lắm. Thành thử tư tưởng đấu tranh của tôi gặp tư tưởng đấu tranh của anh em, cho nên cuối cùng tập hợp nhau thành phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

 TK: Thưa ông, điểm gặp gỡ mấu chốt giữa ông và các anh em văn nghệ sĩ là gì ạ?

NHÐ: Anh em có một điểm gặp nhau là dù thế nào đi nữa cũng không thể chấp nhận được cái chế độ cực quyền, chế độ toàn trị là cái biến dạng của chuyên chính vô sản. Nhưng mà thể hiện đấu tranh để chống lại chủ nghĩa Mao hay chủ nghĩa Staline sẽ cụ thể ra bằng cái gì? Thì cuối cùng  cũng chỉ có vấn đề là: Tự do sáng tác, tức là không chấp nhận chủ nghĩa xã hội của Staline Zhdanov đẻ ra mà trái lại cũng vẫn muốn thể hiện cái hiện thực phê bình như là ở thế kỷ XIX ở phương Tây như là những Balzac, Flaubert, rồi Maupassant, rồi Hugo, Stendhal… lúc bấy giờ anh em tha thiết lắm.

 TK: Thưa ông, rút cục vụ án Nhân Văn Giai Phẩm đã kết thúc ra sao? Ông và các bạn đã trải qua những giai đoạn như thế nào?

NHÐ: Thì tất nhiên tôi là người -tiếng bấy giờ gọi là “đầu sỏ trong cái bọn Nhân Văn Giai Phẩm”- thì tôi bị bắt giữ và đưa ra tòa. Ra tòa thì họ buộc cho cái tội là “phá hoại về chính trị”. Lúc đầu thì đề ra phạm kỷ luật tuyên truyền, nhưng phạm kỷ luật tuyên truyền thì nhẹ lắm, mà thêm một cái là “phá hoại về chính trị” thì tội đó rất nặng. Ở trước tòa án thì tôi nhận mấy điểm như thế này:

1. Tôi có phạm kỷ luật của Ðảng và của nhà nước về phương diện gọi là tuyên truyền.

2. Trong việc làm của tôi, cũng có những vụng về sai sót. Anh em cũng như tôi thôi, thế nhưng tôi gánh trách nhiệm nặng hơn.

3. Ðộng cơ thì nhất định là tốt: Chúng tôi chỉ vì dân, vì nước mà tin rằng việc mình làm có ích nước lợi dân cho nên làm thôi.

Cho nên ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không có bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!

Ở đây tôi phải nói ngay với bà về việc bà hay quan tâm đến bà Thụy An. Người ngoài người ta cũng nói đến bà Thụy An rất nhiều, nhưng mà thật ra thì thế này: Bà Thụy An không tham gia gì vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm cả! Bà ấy không viết một bài, một câu, một chữ nào cho Nhân Văn cả. Bà ấy cũng không hề mách nước, bàn bạc gì với người khác hay là với tôi bao giờ cả. Không! Không hề có! Tuy rằng có quan hệ, thỉnh thoảng gặp nhau. Cũng nói chuyện. Nhưng tại sao lại cứ quy cho bà ấy là Nhân Văn và bà ấy cũng cứ nhận như thế, thì cái đó là cái mà tôi có thể hiểu như thế này: Bà Thụy An bị cơ quan an ninh nghi bà ấy làm gián điệp cho Pháp, vì thời tạm chiếm, bà ấy có quan hệ với nhiều người Pháp. Ðến lúc đi, người ta sắp cử bà ấy làm giám đốc đài phát thanh cơ mà! Như thế là bà ấy cũng có địa vị, có uy tín, thì đáng nhẽ là bà ấy phải theo chính quyền ngụy vào trong Nam chứ, bà ấy lại không theo vào, bà ấy ở lại vì lý do chuyện cá nhân của bà. Vì  bà ấy ở lại như thế thì người ta lại càng nghi: Ờ, thế là bà này là địch cài lại đây! Nguy hiểm lắm đây! Rồi người ta theo dõi. Bà ấy không tham gia vào Nhân Văn nhưng làm một vài việc không hợp ý lãnh đạo lắm. Thí dụ như bà ấy thuê những phim như Hamlet chẳng hạn. Người ta nhìn vào đó người ta cho rằng: Ðấy! Cũng là một cách để đánh lạc hướng, cạnh tranh với những phim Tàu, Liên Xô không được hay, đưa cái phim Hamlet ra để át những phim kia! Thế rồi đến vở kịch, bà ấy cùng với anh Phan Tại, ở cùng nhà và có thân thiết đấy, tổ chức vở kịch Thầy Tú tức là  Topaze của Marcel Pagnol; thế thì người ta cũng lại cho rằng tại sao trong nước cũng viết vở nọ,  vở kia, thiếu gì, không diễn, mà lại đem vở kịch ấy ra. Khi đã nghi thì trông gà hóa cuốc, cái nọ thành ra cái kia. Thế là người ta quy bà cùng với anh Phan Tại vào tội gọi là “phá hoại chính trị” và đem ra xử, xử cùng một phiên tòa. Nhưng mà họ không hỏi tôi về bà Thụy An bao giờ cả. Lúc hỏi cung cũng thế và lúc ra tòa cũng thế, không hỏi về bà Thụy An. Và họ cũng không hỏi gì bà Thụy An về chuyện Nhân Văn cả mà cứ hỏi về chuyện riêng của bà ấy thôi. Nhưng người ta gây ra một sự hiểu nhầm, tức là, tưởng như bà Thụy An cùng một vụ với tôi. Nhưng trong thời sự cũng như trong các tài liệu sách báo ghi lại này khác đó thì bà Thụy An cứ là người trong Nhân Văn.

Có lần giam ở Hà Nội xong rồi người ta đưa chúng tôi lên trại giam Yên Bái. Chuyến đi ô-tô đó cùng đi có Thụy An, và cả tôi. Ðến lúc lên Yên Bái, ở trại giam người ta hỏi để ghi sơ bộ lý lịch. Người ta hỏi tôi thì tôi nhận tôi làm báo Nhân Văn Giai Phẩm, rồi phạm kỷ luật tuyên truyền nọ kia. Còn bà Thụy An, khi hỏi đến tội bà ấy, bà ấy trả lời một cậu gọn lỏn, tôi ngạc nhiên hết sức, bà ấy khai: “Ðịch trong Nhân Văn!” Úi giời! Tôi giật nẩy mình. Tôi bảo: “Quái, cái bà này sao lại khai lạ lùng như thế này?”

Ðến năm 1973, trước khi được trả lại tự do, tôi có gặp lại bà ấy ở bệnh xá của một trại giam, Người ta chăm sức khỏe để cho về đấy. Tôi mới hỏi chị là: “Chị, tại sao chị lại nhận là “Ðịch trong Nhân Văn” là thế nào? Chị có ở trong Nhân Văn bao giờ đâu?” Thì bà ấy bảo: “Tôi bị công an nó hỏi cung, nó đe dọa, nó truy bức nặng quá, tôi đành phải nhận như thế cho qua chuyện. Tôi nhận liều. Tôi xin lỗi anh.” Thế thôi. Chuyện nó buồn cười như vậy đó.

 TK: Thưa ông, ông được về trong trường hợp nào?

NHÐ: Không phải là hết án mà về đâu chị ạ. Cũng không phải là nhà nước khoan hồng. Tôi về là ở trong cái diện gọi là “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris.” Bên miền Nam người ta cũng đại xá chính trị phạm. Miền Bắc cũng đại xá chính trị phạm. Trại tôi ở là thuần túy chính trị. Họ giải tán trại đó, tất cả những người giam ở đó đều được đưa về. Nhưng mà về rồi, cũng còn phải chịu cái tự do hạn chế, bị phân biệt đối xử thế nào đó, nhưng về danh nghĩa thì được đại xá đấy!

 TK: Thưa ông, ông có thể cho biết là hiện giờ ông sống như thế nào?

NHÐ: Sau việc đàn áp rồi thì đến năm 73 tôi được về quê, quản chế mà. Cưỡng bức cư trú. Thì tôi cứ ở quê thôi. Ði đâu cũng phải qua công an cho giấy mới đi được. Còn anh em có phần dễ dàng hơn. Các anh ấy cũng bị đưa đi cải tạo, lao động, thực tế lao động này khác, chứ còn giam giữ thì chỉ có tôi với Phùng Cung thôi. Tôi bị bị 15 năm, anh Phùng Cung 12 năm. Một số anh em sau đó đã được phục hồi như chị đã biết đó: Trần Dần, Lê Ðạt, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, v.v…, Phùng Quán nữa. Bây giờ thì đời sống các anh ấy cũng đã tạm ổn định. Ðời sống của tôi thì trước gay go lắm, nhưng mà từ 1990, tôi đã được hưởng một cái lương hưu hạn chế, thực chất nó là một thứ trợ cấp thôi. Cách đây vài tháng thì tôi đã được cấp một gian nhà ở, vì tôi thuở bé đến giờ chưa bao giờ có nhà cả, bây giờ người ta cấp nhà, tuy rằng nhà cho thuê thôi, như thế cũng là phấn khởi lắm.

 TK: Trước khi từ giã, xin hỏi ông một câu hỏi chót là nếu so sánh với thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm thì việc tự do sáng tác ở thời này khác với thời kỳ ấy như thế nào?

NHÐ: Chị hỏi về việc sáng tác, thì riêng phần tôi, bây giờ tôi cũng có thể viết sách báo được, người ta cũng kiểm duyệt rất chặt chẽ. Nhưng nếu mình viết khéo, mình viết cho đúng với đường lối chính sách thì người ta cũng có thể in cho đấy. Có khả năng người ta in cho. Tôi chưa được in quyển nào bao giờ cả, nhưng mà viết báo thì tôi cũng viết năm, mười bài, người ta cũng để cho đăng thôi, miễn là đừng có động chạm gì lắm. Còn nói về cái sáng tác chung của mọi người, chuyện tự do sáng tác bây giờ như thế nào, thì tôi nói thật với chị là cái nguyên tắc chuyên chính vô sản, nguyên tắc của một nhà nước xã hội chủ nghĩa là quản lý rất chặt những sản phẩm tinh thần, sảm phẩm văn hóa. Cho nên ở Hà Nội này và cả trong nước, văn nghệ sĩ mà viết lách như thế là có hai cơ quan giám sát để người ta sàng lọc, người ta kiểm duyệt. Tức là:

1. Ban Tư tưởng văn hóa. Nó thay ban Tuyên huấn ngày xưa đấy. Ban Tư tưởng văn hóa của Ðảng.

2. Có những cơ quan an ninh thuộc Bộ Nội vụ đấy. Những cơ quan đó cũng theo dõi và khi cần, người ta cũng can thiệp vào nội dung của thơ văn. Hiện bây giờ nó như thế. Tóm lại là nó cũng không thay đổi gì lắm đâu! Cũng như thời trước thôi. Thực tế thì vẫn là phải lãnh đạo chặt chẽ ngành văn học nghệ thuật. Phải lãnh đạo chặt chẽ và anh em muốn làm được cái gì thì cũng phải phục tùng sự lãnh đạo đó, sự kiểm soát đó, sự sàng lọc đó. Nếu có những tác phẩm nào có giá trị, muốn được dùng, thì cái đó cũng phải trông nhờ sự sáng suốt của những cơ quan kiểm soát, những cơ quan lãnh đạo ấy, chứ không phải là tự cái hay, cái tốt của nó mà nó có thể ra đời, nó có thể đi đến quần chúng được. Tôi cho cái đó là rất tự nhiên thôi. Chừng nào mà Ðảng còn giữ độc quyền lãnh đạo, chừng nào còn có chuyên chính vô sản, thì việc đó phải là như thế thôi, không thể nào khác được. Tự do sáng tác phải lệ thuộc rất nhiều vào dân chủ hóa. Bao giờ có dân chủ hóa nhiều thì bấy giờ mới có tự do sáng tác nhiều. Hai cái đó nó gắn liền với nhau.

 TK: Xin cám ơn ông Nguyễn Hữu Ðang.

Chương trình Văn Học Nghệ Thuật, RFI, 10/9/1995

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nói chuyện với Nguyễn Hữu Đang về ngày lễ Độc lập

Tháng Tư 25, 2008 at 6:09 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

Tên tuổi Nguyễn Hữu Đang đã gắn liền với hai chữ tranh đấu: tranh đấu giành độc lập cho tổ quốc, và tranh đấu cho tự do và dân chủ. về hành trình dài và cam go này, nhà cách mạng lão thành sẽ dành riêng cho thính giả RFI hai chương trình đặc biệt. Chương trình hôm nay nói về ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, ngày lễ Độc Lập mà ông được cụ Hồ giao phó cho trọng trách Trưởng ban tổ chức. Trong chương trình chủ nhật tới, mùng 10 tháng 9/1995, ông Nguyễn Hữu Đang sẽ nói về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.

Thụy Khuê: Thưa ông Nguyễn Hữu Đang, 50 năm sau ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945, có lẽ hiện nay không ai có thẩm quyền hơn ông để nói về ý ,nghĩa của ngày lễ này vì chính ông đã là trưởng ban tổ chức ngày lễ Độc lập mùng 2 tháng 9.

Nguyễn Hữu Đang: Thưa bà, khi tôi được chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ tổ chức ngày này, lúc bấy giờ chủ tịch cũng như Trung ương đảng đề ra chỉ là một ngày lễ để chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân, đồng thời đọc một bản tuyên ngôn độc lập đối với dân trong nước và đối với cả thế giới. Sau đó, tôi cùng với ban tổ chức trao đổi ý kiến, muốn nâng cao giá trị ngày lễ đó lên cho nên chúng tôi đã đặt tên nó là Ngày Độc Lập để nói lên ý nghĩa trọng đại của ngày hôm đó trong lịch sử Việt Nam. Ngày Độc lập đó có bốn tính chất như thế này: Một là tính chiến đấu của nó, hai là tính khẩn trương của nó, bà là tính nhân dân của nó, thứ tư là tính độc đáo của nó. Tính chiến đấu của nó là do tình thế nghiêm trọng của nước Việt Nam lúc bấy giờ. Từ năm 1943, chính phủ lâm thời kháng chiến của Pháp thành lập ở Alger, tướng de Gaulle đứng đầu chính phủ, lập tức nghĩ ngay đến việc thu hồi lại thuộc địa đã mất, quyết tâm lấy lại Đông Dương bằng vũ lực. Chính phủ de Gaulle, khi đưa lực lượng vũ trang sang chuẩn bị lấy lại Đông Dương, phất cao ngọn cờ gọi là chính nghĩa của mình, đánh bọn giặc cỏ phiến loạn. Điều đó làm cho nhân dân Pháp hiểu nhầm cách mạng Việt Nam. Chúng tôi không được sự ủng hộ của nhân dân thế giới và nhân dân Pháp, cho nên vấn đề là phải chính thưc hóa nhà nước mới, chính thức hóa chính phủ lâm thời để thế giời trông vào, biết rằng chính nghĩa là thuộc về chúng tôi chứ không thuộc về thực dân Pháp. Chính thức hóa một nhà nước mới và một chính phủ được nhân dân ủng hộ. Tất cả hai điều đó, chúng tôi long trọng công bố trước nhân dân trong nước cả thế giới. Ngoài những khó khăn do phe thực dân gây ra còn có một cái khó khăn cực lớn của Trung quốc, chính phủ Tưởng giới Thách. Ngày mùng 9 tháng 8, chính phủ Trung quốc tuyên bố sẽ đưa quân vào Đông Dương để giải giáp quân Nhật theo quyết định của Hội nghịa Postdam tháng 7 năm 1945. Tiếp theo, ngày 27 tháng 8, quân Tàu Tưởng thuộc quyền chỉ huy của tướng Lư Hán, vượt biên giới Hoa Việt vào nước ta. Theo chân họ có các tổ chức Việt Nam Quốc dân đảng của Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam và Việt Nam Cách mạng đồng chí hội của Nguyễn Hải Thần. Quân của Lư Hán cùng với hai đảng chống Việt Minh, chống từ trước chứ không phải về sau đâu, không dự vào mặt trận đoàn kết, mặt trận đánh Pháp bao giờ cả, hai đảng ấy chống Việt Minh đến cùng, nguyện cuộc tấn công của phe thực dân Pháp đã là một mối đe dọa lớn với nền độc lập của chúng ta rồi, thêm vấn đề Trung quốc vào đấy lại còn nguy hiểm hơn nữa. Tính chất khẩn trương là như thế. Tính chiến đấu đã nói rồi. Còn tính nhân dân thì cũng gọn thôi vì sau khi chúng tôi đang thông cáo, nhân dân ủng hộ, tham gia rất tích cực, người góp của, người góp công. Tất cả việc chúng tôi làm đều không có phương tiện của nhà nước, mà toàn là phương tiện của nhân dân đem đến cả. Đấy là tính nhân dân. Tính thứ tư là tính độc đáo thì chúng tôi tổ chức một buổi mít-tinh huy động thành phố Hà Nội, huy động tất cả mọi người, không trừ mùột ai cả, coi như thành phố thiết quân luật, nhân dân đi mít-tinh, đi từ nửa đêm, cơm nắm muối vừng, đi từ sáng sớm cho đến tối đêm mới trở về nhà. Đó là một tính độc đáo mà sau này không ai làm như vậy cả.

T.K.: Thưa ông, ông đã làm sao để có thể tổ chức một ngày lễ lớn như thế?

N.H.Đ.: Vấn đề là chúng tôi bắt đầu việc tổ chức như thế nào. Hồ chủ tịch, khi giao như thế thì chỉ còn có 4 ngày nữa thôi. Bốn ngày mà làm việc lớn như thế, không phải là tổ chức ở Hà Nội đâu, mà tổ chức trong cả nước, thì bốn ngày làm sao đủ để làm được, nhất là lúc bấy giờ chúng tôi không có bộ máy gì cả. Ông cụ giao cho tôi một mình, về rồi tôi tập hợp một số anh em, phương tiện thì chỉ có hai bàn tay trắng, một đồng xu không có, một ki-lô gỗ, ki-lô xi măng cũng không có thì làm thế nào bây giờ trong hoàn cảnh khó khăn quá như vậy. Tôi có nói là còn ít ngày nên khó quá thì cụ lại bảo có khó mới giao cho chú chứ. Qua câu đó tôi biết là khó cũng phải làm, mà làm ngay. Tôi hiểu không thể hoãn, không thể chậm được. Khi giao việc như thế, lúc bấy giờ cũng đã 10 giờ đêm rồi, tôi lập tức trở về bộ Tuyên truyền. Ở thời điểm đó chưa thành lập chính phủ có phân công bộ nọ bộ kia, lúc bấy giờ tôi tạm thời đảm nhiệm thứ trưởng bộ Tuyên truyền. Tôi chạy về bộ Tuyên truyền, gọi dây nói cho các tờ báo, tôi đọc ngay lập tức cho họ một thông cáo tôi viết vội, kêu gọi quốc dân ai có nhiệt tình với nền độc lập đến tham gia việc tổ chức ngày hôm nay. Nhân dân hưởng ứng rất mạnh mẽ. Tôi giao cho anh Trần Kim Xuyến là Đổng lý văn phòng bộ, liên lạc với các anh bạn ở trong ba tổ chức là hội Truyền bá quốc ngữ, hội Văn hóa cứu quốc và Hướng đạo sinh để thành lập ban tổ chức ngay tối hôm đó. Trước hết là chọn địa điểm. Địa điểm thì chọn ở đâu bây giờ? Đưa ra bãi đá bóng thì khôn long trọng. Có một khu rộng rãi bây giờ gọi là quảng trường, ngày xưa tiếng Pháp gọi là rond point, chẳng nhẽ lại bảo là mời đến cái rond point phủ Toàn quyền à? Nghe nó vô duyên và kệch cỡm thế nào đó. Chúng tôi cũng lợi dụng việc chính phủ Trần Trọng Kim đã đặt tên chỗ đó là Vườn hoa Ba Đình, chúng tôi bảo thế thi được, mời nhân dân đến Vườn hoa Ba Đình biểu tình. Số người hôm đó trên nửa triệu người.

T.K.: Xin ông nói về vai trò của cụ Hồ. Giả sử nếu không có cụ Hồ thì Cách mạng tháng tám có thể thành công được hay không, thưa ông?

N.H.Đ.: Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng; Cụ có thành lập Mặt trận Việt Minh thì mới có Cách mạng tháng tám. Nếu đảng cộng sản đứng ra vận động cuộc Cách mạng tháng tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt trận Việt Minh, đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng cộng sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy. Cho nên Hồ chủ tịch đã sáng suốt thứ nhất là chủ trương Mặt trận dân tộc để thu hút quần chúng, thứ hai là cụ đã nhằm được đúng thời cơ, chiến tranh thế giới tạo ra, đưa đến đảo chính Nhật, rồi đưa đến Nhật đầu hàng, đấy là một thời cơ vô cùng quý giá. Nếu không có thời cơ đó thí Cách mạng tháng tám cũng không làm gì được, dù có thiên binh vạn mã cũng không làm trò gì được. Đảng cộng sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu. Quần chúng tự khắc người ta nổi lên thành ra một làn sóng cách mạng đưa đến kết quả như vậy.

T.K.: Tại sao từ một khí thế của ngọn sóng toàn quốc kháng chiến những năm 45-46 lại đi đến chỗ đổ vỡ, bắt bớ, và thủ tiêu những đảng phái đối lập những năm sau đó?

N.H.Đ.: Phải nói như thế này là những cuộc đấu tranh của nước nào cũng vậy, khi nó rộng rãi quá, ban đầu nó đoàn kết, về sau nó phân hóa. Nó có những mâu thuẫn vì trong xã hội các tầng lớp có phải nhất trí quyền lợi với nhau đâu; không nhất trí về quyền lợi, có khi còn không nhất trí về quan điểm với nhau nữa, đến lúc phân hóa thì do mâu thuẫn quan điểm, mâu thuẫn quyền lợi thì phải đấu tranh với nhau. Điều này chúng ta còn lạ gì nữa, về chính trị thì một mất một còn chứ còn có dung hòa gì được nữa, có phải là việc gia đình đâu. cả hai đảng, chắc bà cũng nghĩ đến, là Quốc dân đảng và Cách mạng đồng minh hội không hề hợp tác với Mặt trận Việt Minh, lúc khởi nghĩa cướp chính quyền không hợp tác gì cả, nhưng sau khi đã có chính quyền rồi thì hai đảng đó dựa vào quân đội Tàu trở về nước, ý định là tranh quyền, cướp nước cho nên là hai bên đấu nhau. Nhưng rồi cuối cùng quân đội Tàu cũng thấy rằng không thể lật đổ chính quyền Việt Minh được, phản giàn xếp. Chúng tôi cũng rất mềm dẻo và đoàn kết với họ thành lập một chính phủ liên hiệp đấy. Thành lập chính phủ liên hiệp rồi vẫn không hết mâu thuẫn cho nên sau cũng đi đến đổ vỡ thôi.

T.K.: Ông vừa nói đến những đảng phái đối lập, nhưng đối với nội bộ đảng cộng sản cũng có những đổ vỡ. Tại sao từ một khí thế đoàn kết năm 45, 10 năm sau đó dẫn đến cuộc Cải cách ruộng đất và những vụ thanh trừng khác?

N.H.Đ.: Có thể hiểu việc đó như thế này: Ngay trong cương lĩnh của đảng Cộng sản Đông Dương cũng ghi rõ là làm cách mạng để tiến tới cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cho nên 10 năm sau, nhất định nước Việt Nam phải tiến lên chủ nghĩa xã hội và muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải tiến hành đấu tranh giai cấp, phải xóa bỏ địa vị, quyền lợi của hai giai cấp bóc lột là giai cấp địa chủ và giai cấp tư sản. Trước kia đoàn kết Mặt trận giải phóng dân tộc, giờ đây phải đấu tranh giai cấp để tiến tới chủ nghĩa xã hội. trong đấu tranh giai cấp như thế thì quyết liệt lắm, có ảnh hưởng chủ nghĩa Stalin và chủ nghĩa Mao Trạch Đông là quá tả, rất ác liệt, cuối cùng Việt Nam cũng tiến hành đấu tranh giai cấp như thế. Diện gọi là đoàn kết cũng thu hẹp lại, xã hội tiến lên cần phải như thế, đây là tôi nói quan điểm của đảng cộng sản, cho nên có những cuộc cải cách ruộng đất. Sau này những đảng khác được thành lập cũng phải trên cơ sở phục tùng đảng cộng sản thì mới tồn tại được. Nếu không phục tùng đảng cộng sản thì không thể tồn tại được. Tiến lên đấu tranh giai cấp, tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải tăng cường chuyên chính, phải độc quyền lãnh đạo. Ai vi phạm những điều này sẽ bị xử trí rất nghiêm khắc.

T.K.: Trách nhiệm của cụ Hồ trong các công việc ấy, cụ Hồ có biết hay là người dưới lạm quyền?

N.H.Đ.: Cái việc mà người ta cứ nói là việc nọ việc kia là người dưới làm chứ cụ Hồ không biết, cụ Hồ không thực tiễn làm, đó là một cách nói không đúng sự thật. Người ta thấy việc gì mà có dư luận kêu ca, thắc mắc thì không muốn để cái kêu ca thắc mắc đó hướng vào vị lãnh tụ mà người ta suy tôn tuyệt đối, có thể nói là người ta thần thánh hóa cụ Hồ, có lý do như thế nhưng thực chất thì cụ Hồ không là người bị vô hiệu hóa trong bộ máy lãnh đạo của đảng và của dân tộc cả. Cụ Hồ lúc nào cũng là người có đầy đủ quyền hành, lúc nào cụ cũng sáng suốt, linh lợi, lúc nào cụ cũng có uy tín với dân và cũng có quyền đối với các đồng chí trong đảng, đối với những người lãnh đạo khác. Chắc bà cũng biết rằng những vị lãnh đạo khác của đảng, đối với cụ Hồ là học trò chứ không phải như ở các đảng cộng sản khác đâu. Cho nên uy tín của cụ Hồ, quyền hành của cụ Hồ bao giờ cũng rất vững, cụ Hồ biết hết cả, và việc đó cụ Hồ cũng đồng tình làm. Có thể nói tóm một câu là cho đến mấy năm sau cùng vì cụ yếu cụ ít chăm nom công việc, cụ khoán cho Bộ chính trị, cụ ít can thiệp trực tiếp, chứ còn trước đó thì bất cứ việc gì cũng là trong phạm vi chỉ đạo của cụ cả. Hay cũng ở cụ, dở cũng ở cụ. Cụ phải gánh trách nhiệm đó, điều đó rõ ràng; Có khi nào một lãnh tụ tối cao đối với dân tộc, lãnh tụ tối cao của đảng mà lại không có trách nhiệm về việc nọ, việc kia, điều đó không đúng. Chế độ gọi là báo cáo thỉnh thị rất chặt chẽ trong nội bộ đảng cộng sản và trong bộ máy chuyên chính của nhà nước cũng thế, nghiêm ngặt lắm.

T.K.: Xin cảm ơn ông Nguyễn Hữu Đang.

Thụy Khuê

RFI ngày 3-9-1995

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Tưởng niệm nhà văn hóa Nguyễn Hữu Đang – P/v Lê Đạt – Hoàng Cầm

Tháng Tư 25, 2008 at 6:05 chiều (. Hoàng Cầm, . Lê Đạt, . Nguyễn Hữu Đang)

Nhà hoạt động văn hóa và tranh đấu Nguyễn Hữu Đang đã từ trần ngày 7/2/2007 vừa qua và tang lễ đã được cử hành sáng nay tại Hà Nội. Để tưởng niệm nhà trí thức lão thành, cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, xin mời quý vị nghe hai người bạn đã cùng ông xây dựng nên báo Nhân Văn, đó là nhà thơ Lê Đạt và nhà thơ Hoàng Cầm mà chúng tôi xin thành thực cảm ơn sự góp mặt hôm nay.

Thụy Khuê: Trước hết, thưa anh Lê Đạt, anh với anh Đang, mặc dù tuổi tác khác nhau nhưng lại rất thân nhau, vậy xin anh cho biết về con người của anh Đang.

Lê Đạt: Tôi biết tiếng anh Đang đã lâu rồi, nhưng khi anh Đang ở Khu IV, thì tôi lại ở trên Việt Bắc. Đến khoảng trước năm 54, thì anh Đang về làm biên tập tờ Văn Nghệ với tôi, và sau báo Văn Nghệ, thì lại tiếp tục làm tờ Nhân Văn với nhau; trong thời gian ấy, chúng tôi rất thân nhau vì anh Đang sống một mình cho nên hai anh em có thể gặp nhau ngày đêm bất kể lúc nào để bàn luận công việc. Anh Đang rất trực tính, cái gì cũng nói thẳng với nhau được. Tôi kể một chuyện này để chị thấy: thời kỳ tôi mới vào báo Văn Nghệ, anh Xuân Diệu cũng ở trong báo Văn Nghệ. Lúc ấy anh Xuân Diệu đang làm thư ký toà soạn thì bị bệnh vào nằm bệnh viện, tôi làm thay. Anh Xuân Diệu rất khó chịu với tôi, anh ấy nói với anh Tưởng (Nguyễn Huy Tưởng) là không nên để Lê Đạt làm, vì nó chủ quan lắm, bài của mình cũng bị nó gạt luôn, Lê Đạt còn quá trẻ để làm việc ấy. Anh Tưởng hỏi: Thế thì để ai làm? Anh Diệu bảo việc ấy để Đang làm. Anh Tưởng rất nể anh Đang, nhưng khi anh Tưởng vừa nói là không để tôi làm thì anh Đang mắng luôn: Sao cậu phong kiến thế, để nó làm. Nó làm hơn tớ nhiều. Tớ không làm đâu. Anh Đang rất ủng hộ tôi, mà anh em đối với nhau rất vui vẻ. Anh Đang là người rất nghệ sĩ, có vẻ hắc thế thôi nhưng rất nghệ sĩ, bề ngoài là người cứng rắn nhưng tâm hồn rất mềm yếu. Tôi đã trông thấy anh Đang nhìn một em bé chơi dưới nắng trong nửa tiếng đồng hồ, một cách rất say mê. Về văn nghệ ý kiến của anh ấy rất xác đáng và nhất là về hội họa, anh rất tinh. Chỉ có là anh ấy chưa làm thơ thôi, chứ anh ấy rất hiểu văn nghệ.

 T.K.: Thưa anh, trong suốt thời gian từ 1973 sau khi ra tù, rồi bị quản thúc ở Thái Bình cho đến sau này, anh Đang có viết được nhiều không ạ?

L.Đ.: Anh Đang lúc ấy có một việc rất hay mà tôi tiếc là anh đã không làm được: anh có ý muốn xem lại Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Một người như anh Đang, làm cách mạng, sau khi bị tù đày mà nghiên cứu Nam Hoa Kinh, tôi chắc là sẽ có nhiều điểm hay lắm. Nhưng thời kỳ ở Thái Bình, anh quá khổ, thời kỳ giun dế mà Quán (Phùng Quán) nói đó, quá khổ. Người ta phải có điều kiện vật chất tối thiểu thì mới có thể đọc sách, nghiên cứu được chị ạ. Sau khi anh Đang được trở về Hà Nội, tôi rất hy vọng là anh Đang sẽ làm được chuyện ấy. Nhưng lúc đó thì lại có một việc khác xảy ra là người này, người kia mời. Cho nên anh mất rất nhiều thì giờ giao tiếp, tôi có nhắc anh một vài lần, rồi sau cũng không dám nhắc nữa, vì mình cũng phải thông cảm với cái khổ của anh. Anh có viết được không? Tôi không rõ, nhưng nếu anh viết chắc là có nhiều ý kiến độc đáo lắm. Bởi vì những lúc nói chuyện với nhau, tôi đã thấy anh có những ý kiến rất đặc biệt. Một người đi từ chủ nghĩa Cộng sản, sang Lão Tử, Trang Tử, thì tôi chắc phải có nhiều cái hay lắm, nhất là anh Đang là người có nhiều ý kiến độc đáo. Nhưng làm thế nào được, đó là cuộc đời.

 T.K.: Thưa anh, nếu sau này giới trẻ muốn tìm hiểu về anh Đang thì nên giữ lại hình ảnh gì của  anh Đang?

L.Đ. Cuộc đời anh Đang là cuộc đời khổ sở. Anh Đang bị nhiều thiệt thòi, lúc trẻ anh bận công tác cho văn hóa, công tác tổ chức, công tác cách mạng, cho nên anh không viết được nhiều. Sau này khổ sở, rồi cuộc đời đưa đẩy, anh không viết được, cho nên cái viết của anh hầu như không để lại gì nhiều. Đó là điều rất đáng tiếc. Thế hệ sau khó biết Nguyễn Hữu Đang, khó hiểu Nguyễn Hữu Đang, bởi vì khi đã chết đi, người ta chỉ có thể quen nhau qua trước tác thôi, qua tác phẩm thôi, mà anh Đang viết rất ít. Nhưng tôi vẫn tin là người ta không quên được anh Đang, một người hoạt động văn hóa xuất sắc, tận tâm. Anh Đang có công rất nhiều trong việc Truyền bá quốc ngữ, tôi cho đó là điểm phải đề cao về anh Đang. Tôi tin rằng khi nói đến tiếng Việt, người ta không thể quên được Nguyễn Hữu Đang.

 T.K.: Xin thành thật cảm ơn nhà thơ Lê Đạt.

 ***

  

Nhà thơ Hoàng Cầm cho chúng tôi một buổi nói chuyện dài về chân dung của ông Nguyễn Hữu Đang, và đây là phần mở đầu.

 Thụy Khuê.: Thưa anh Hoàng cầm, anh đã quen  anh Nguyễn Hữu Đang trong trường hợp nào?

Hoàng Cầm: Anh Nguyễn Hữu Đang lúc đầu không phải là bạn tôi, anh hoạt động ở một lĩnh vực khác. Vào khoảng năm 44, khi tôi chuẩn bị biểu diễn vở Kiều Loan, anh đến. Lúc bấy giờ anh làm bên Hội Truyền Bá Quốc Ngữ do ông Nguyễn Văn Tố làm trưởng ban. Sau này tôi mới biết là lúc bấy giờ anh đã tham gia hoạt động cách mạng rồi. Đến ngày tuyên ngôn độc lập của bác Hồ, chính anh Nguyễn Hữu Đang là người tổ chức buổi mít-tinh tuyên ngôn độc lập. Sau này anh tham gia vào chính phủ lâm thời, làm bộ trưởng không bộ. Tôi luôn luôn kính trọng anh là một người hoạt động cách mạng rất tích cực và trong sáng. Khi chúng tôi chuẩn bị diễn vở Kiều Loan, anh vui lòng nhận đỡ đầu cho vở Kiều Loan để biểu diễn, từ việc xin phép Nhà Hát Lớn, hoặc xin phép nọ kia, anh ấy lo hết. Đến thời kháng chiến, tôi cũng chỉ gặp anh những ngày đầu.

 T.K.: Thưa anh, đến khi nào thì anh Đang ngừng mọi hoạt động kháng chiến và giữ khoảng cách với chính phủ cách mạng?

 H.C.: Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến. Sáng tác hay biểu diễn trước tiên là hướng vào cuộc kháng chiến để giành thắng lợi đã, rồi sau sẽ bàn đến những vấn đề khác. Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. Tôi cũng được mời nhưng không đi dự vì bị ốm, trong hội nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức. Ở chơi với anh Bảo thôi và cũng giúp anh Bảo làm vài công việc xuất bản và góp ý kiến. Anh Bảo cũng thân với anh Đang và cũng nghe lời anh Đang nhiều. Anh Đang không làm công việc gì của nhà nước cả, tôi cũng không hiểu rõ nguyên nhân. Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa.

 T.K.: Xin cảm ơn anh Hoàng Cầm.

 Chú thích: Theo bản “Thông đạt của hội Văn Nghệ Việt Nam về Hội nghị văn nghệ toàn quốc” in trên trang đầu báo Văn nghệ, số 4, tháng 8/1948 (sưu tập Văn Nghệ 1948-1954, do Hữu Nhuận sưu tầm và Lại Nguyên Ân biên tập, Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1998), thì: “Hội nghị Văn nghệ toàn quốc gồm có 80 đại biểu trong các ngành: Văn chưong, âm nhạc, hội họa, diễn kịch, kiến trúc và nhiếp ảnh đã họp ở một điạ điểm Bắc Bộ từ 23 đến 25 tháng 7-1948″. Hội nghị đã chính thức thành lập hội Văn Nghệ Việt Nam; uỷ ban chấp hành với Nguyễn Tuân, Tổng thư ký và Tố Hữu, phó thư ký. Bài tường thuật của Xuân Diệu cho biết trong số những người tham dự có Phạm Duy, và để ý đến sự vắng mặt của Nguyễn Hữu Đang (và vài ngưòi khác). Như vậy Nguyễn Hữu Đang đã không dự hội nghị. Mối bất đồng giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh về đường lối văn nghệ kháng chiến đã xẩy ra trước hội nghị, và có lẽ để phản đối Nguyễn Hữu Đang không dự hội nghị. Nhận xét thứ nhì: trong thời gian này (1948) về điạ vị, Tố Hữu chưa quan trọng, vẫn còn ở dưới Nguyễn Tuân. 

  

 

 

Trích chương trình Văn Học Nghệ Thuật, RFI, 10/2/2007

Liên kết tĩnh Gửi bình luận

Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?

Tháng Tư 25, 2008 at 5:57 chiều (. Nguyễn Hữu Đang)

Những năm gần đây và nhất là sau khi ông mất, nhiều sự kiện về cuộc đời Nguyễn Hữu Đang đã sáng tỏ hơn, một số tư liệu về con người ông đã được phơi bày ra ánh sáng và do đó chúng ta đã có thể tạm dựng một tiểu sử đầy đủ hơn về nhà văn hoá cách mạng lão thành.

Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Mất ngày 8/2/2007 tại Hà Nội.

Theo bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay (tài liệu của diendan.org), thì năm mười sáu tuổi (1929), Nguyễn Hữu Đang tham gia Học sinh Hội (tổ chức thuộc Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội rồi Đông dương Cộng sản đảng). Là tổ trưởng và đối tượng kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, bị bắt bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, khai rút tuổi: sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà.

Từ 1932 đến 1936 theo học trường sư phạm Hà Nội.

1937-1939: tham gia Mặt trận dân chủ Đông dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).

Từ 1938 đến 1945, hoạt động trong Hội truyền bá quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên ban trị sự trung ương, huấn luyện viên trung ương, trưởng ban dạy học, trưởng ban cổ động, phó trưỏng ban liên lạc các chi nhánh tỉnh. (theo tài liệu viết tay đã dẫn ở trên).

Theo tài liệu chính thức (điếu văn, do ông Quang Quý, đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo đọc trong tang lễ Nguyễn Hữu Đang ngày 10/2/2007) thì từ năm 1943, Nguyễn Hữu Đang tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Hè 1944, ông tổ chức Hội nghị Giáo khoa thư toàn quốc tại Hà Nội. Tháng 8/1944, ông bị bắt ở Nam Định, nhưng đến đầu tháng 9/44 được tha (theo nhật ký Nguyễn Huy Tưởng). Tiếp tục hoạt động cách mạng: tháng 8/1945 dự đại hội Tân Trào, được bầu vào Chính phủ lâm thời và được phân công tổ chức ngày lễ Tuyên bố Độc lập 2/9/1945. Từ tháng 11/45 đến tháng 12/46 lần lượt giữ các chức vụ Thứ trưởng bộ thanh niên, Chủ tịch uỷ ban vận động Hội nghị văn hoá toàn quốc, Trưởng ban tuyên truyền xung phong trung ương, phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Hội Liên Việt.

Năm 1947, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông dương.

Vẫn theo tài liệu chính thức thì từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, ông được cử làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ. Nhưng theo những thông tin mà chúng tôi kiểm điểm lại thì từ năm 1948, sau Hội nghị văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền, ông ở lại Thanh Hoá, giúp Trần Thiếu Bảo làm nhà xuất bản Minh Đức. Đến 1954, sau hiệp định Genève, Ban lãnh đạo văn nghệ mời ông ra hoạt động lại. Từ tháng 11/1954 đến tháng 4/1958, ông làm biên tập viên tuần báo Văn nghệ.

Cuối năm 1956, Nguyễn Hữu Đang tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm, chủ trương báo Nhân Văn cùng với Hoàng Cầm, Trần Duy, rồi Lê Đạt.

Tháng 4/1958 bị bắt. Ngày 21/1/1960, bị ra toà cùng với Thụy An, Phan Tại, bị kết án 15 năm tù vì tội “phá hoại chính trị”. Bị đưa lên giam ở Hà Giang. Năm 1973, được trả về theo diện “Ðại xá chính trị phạm trong hiệp định Paris.” và bị quản chế ở Thái Bình. 1989, được “phục hồi” cùng với các bạn trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. 1990, được lĩnh lương hưu và từ 1993, được về sống ở Cầu Giấy, Nghiã Đô, ngoại ô Hà Nội cho đến lúc mất.

 ****

Nhà hoạt động văn hoá và cách mạng Nguyễn Hữu Đang là một trong những khuôn mặt trí thức dấn thân tranh đấu cho tự do dân chủ can trường nhất trong thế kỷ XX. Là cột trụ của phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang đã bị bắt, bị cầm tù, bị quản thúc và mất quyền tự do phát biểu trong 60 năm (từ 1957 đến 2007, khi ông mất).

Cuộc đời ông nhiều điểm vẫn còn trong vùng tối, bởi sau khi chấm dứt thời kỳ quản thúc ở Thái Bình, tuy được về sống tại Cầu Giấy, ngoại ô Hà Nội, ông vẫn bị “chăm sóc” kỹ càng. Điện thoại của ông, cũng như của các thành viên cựu Nhân Văn đều bị kiểm soát, nhưng riêng ông, ông không được phục hồi quyền phát biểu, tức là không được quyền trả lời phỏng vấn công khai như những người khác.

Lần duy nhất chúng tôi tiếp xúc với ông qua điện thoại viễn liên Paris-Hà nội, cuối tháng 8 năm 1995, là nhờ sự giúp đỡ của nhà thơ Lê Đạt, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày Tuyên ngôn Độc Lập 2/9/1945, để phỏng vấn ông, qua điện thoại của Lê Đạt, về ngày lễ này do ông tổ chức, rồi nhân đó hỏi thêm ông về chuyện Nhân văn. Buổi thu thanh duy nhất đó được phát làm hai lần trên RFI trong tháng 9/1995 (có thể nghe lại trên http://thuykhue.free.fr). Phần ông trả lời về Nhân văn Giai phẩm, chúng tôi đã ghi lại và in trên Hợp Lưu 81, tháng 2-3/2005, số đặc biệt về phong trào Nhân văn Giai phẩm. Hợp Lưu số này in toàn bộ cả hai phần, để độc giả có một cái nhìn toàn diện hơn về con người văn hoá và chính trị Nguyễn Hữu Đang.

Kỷ luật áp dụng cho ông nghiệt ngã hơn tất cả các bạn đồng hành. Lần cuối cùng tôi về Hà Nội vào mùa thu năm 1997, ông đến thăm 2 lần, nhưng lần nào cũng do ông V.T, người của bộ nội vụ, chở ông đi. Ông V.T nay cũng đã mất. Câu chuyện, vì có sự hiện diện người của bộ nội vụ, nên đã không nói được gì; những điều không thể hỏi ông qua điện thoại, đến khi gặp mặt cũng không hỏi được. Bao nhiêu chi tiết muốn ông soi tỏ về những hoạt động, những khúc mắc ngày xưa, về quãng đời tranh đấu truân truyên, vẫn còn nguyên trong bóng tối. Nhưng lần ấy, ông dặn: “Anh em mình sẽ cố gắng làm chung với nhau một số chương trình văn hoá văn nghệ. Chỉ văn nghệ thôi.” Như để gián tiếp trấn an người thứ ba.

 Khi trở về  Paris, tôi đã cố gắng điện thoại cho ông nhiều lần để “thực hiện chương trình”, nhưng chỉ sau vài câu thăm hỏi là điện thoại lại bị cắt, mặc dù đề tài nói chuyện, như đã dự định, chỉ chuyên về văn hoá. Có lần phẫn uất quá, ông đã quát lên trong điện thoại: “Chúng ta chỉ nói với nhau những chuyện văn hoá văn nghệ, chứ có làm gì phản dân, hại nước đâu mà chúng nó cũng…”  Lời ông chưa dứt, tiếng điện thoại đã lại u u… Câu nói dở dang ấy đã gây chấn động trong tôi trong nhiều năm tháng. Và suốt thời gian còn lại, tôi không bao giờ điện thoại cho ông nữa, một phần vì không muốn ông bị phiền phức thêm trong cuộc đời quá nhiều thử thách, đớn đau; nhưng còn một lý do nữa là sau này ông bị nặng tai, càng ngày càng nghe không rõ, những người đến thăm ông thường phải bút đàm. 

Cùng trong Nhân Văn, nhưng về cách đối xử, ông được “biệt đãi” hơn các bạn, biệt đãi đến phút cuối. Bởi ông được coi là “đầu sỏi”. Đám tang Văn Cao, rồi Phùng Quán, Trần Dần đều đã được cử hành tương đối trọng thể (dù chỉ để che mắt thế gian). Hoàng Cầm, Lê Đạt còn được đọc điếu văn khóc bạn trước linh cữu Trần Dần. Đến Nguyễn Hữu Đang mọi chuyện đã khác.  

Tang lễ Nguyễn Hữu Đang cũng được nhà nước cử hành, nhưng mọi sự dường như đều đã  toan tính sao cho vừa đủ lệ bộ, trong lặng lẽ, khiến người thân không biết để đến dự. Trước linh cữu ông, hành động Nhân văn vẫn còn bị chính thức tuyên bố là một “sai lầm”.

Chỉ vài giờ sau khi ông mất, chúng tôi đã được tin cho nên đã kịp thời liên lạc với hai nhà thơ Lê Đạt và Hoàng Cầm, để ghi âm những lời tiễn bạn của hai nhà thơ qua điện thoại viễn liên Paris-Hà Nội. Riêng Hoàng Cầm hôm ấy, mặc dù tuổi cao, và sau khi bị ngã, ông chỉ nằm không còn đi lại được nữa, nhưng ông đã muốn nói thật dài về con người Nguyễn Hữu Đang. Nhà thơ nói không ngừng, nhưng sau khi thu thanh được nửa tiếng, vì sợ ông mệt, chúng tôi đề nghị ông tạm ngừng để hôm sau thu tiếp. Nhưng cả ngày hôm sau và hôm sau nữa, không thể liên lạc được với ông vì đường giây điện thoại của Hoàng Cầm với Paris đã bị chặn. Như vậy, tiếng nói của những thành viên Nhân Văn Giai Phẩm, cho đến hôm nay, vẫn còn bị kiểm duyệt chặt chẽ, đặc biệt trong những phát biểu về Nguyễn Hữu Đang và những gì liên quan đến phong trào Nhân văn Giai phẩm.

 Bài viết này gửi đến những bạn trẻ muốn đặt câu hỏi: Nguyễn Hữu Đang, ông là ai?    

Để trả lời câu hỏi này, dĩ nhiên chúng ta không thể bằng lòng với những gì đã ghi trong tiểu sử viết tay và tiểu sử chính thức mà chúng tôi vừa trình bày ở trên.

 Thắc mắc đầu tiên: Tại sao bản “Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang” do chính ông viết tay, lại dừng ở năm 1945, sau đó không thấy ông viết tiếp nữa? Sự ngừng này có ý nghiã gì? Khi một người cầm bút im lặng. Sự im lặng luôn luôn có ý nghiã.

Thắc mắc thứ nhì: quãng đời 6 năm, từ 1948 đến 1954, được chính thức ghi là ông làm Trưởng ban thanh tra Bình dân học vụ (chính xác hơn là từ 6/1949 đến 10/ 1954). Nhưng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, lại không có một dòng nào về Nguyễn Hữu Đang trong suốt thời kỳ 1948-1954.

Vậy chúng ta phải sẽ tìm hiểu giai đoạn này qua lời Nguyễn Huy Tưởng, lời Hoàng Cầm và qua bài buộc tội và mạ lỵ của Hồng Vân tựa đề “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn Hữu Đang” đăng trên báo Văn Nghệ số 12 tháng 5/58, in lại trong cuốn Bọn Nhân văn Giai phẩm trước toà án dư luận. NXB Sự Thật, Hà Nội, 1959. Nhìn lại địa vị và uy tín của Nguyễn Hữu Đang  trong chính trị cũng như văn nghệ, Hồng Vân hẳn là ẩn danh của một người tầm cỡ như Trường Chinh, Xuân Thủy… mới có đủ “thẩm quyền” để viết bài “đánh” Nguyễn Hữu Đang, như người ta đã giao cho Nguyễn Công Hoan đánh Phan Khôi, Phạm Huy Thông đánh Trần Đức Thảo, Hoài Thanh đánh Trương Tửu, Xuân Diệu đánh Lê Đạt…

   Bút hiệu: Nguyễn Hữu Đang có nhiều bút hiệu khác nhau và hiện nay chưa biết rõ ông đã dùng bao nhiêu bút hiệu trong cuộc đời tranh đấu cách mạng và trong thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, vì vậy, việc tìm lại những bài viết của ông không dễ dàng. Một ví dụ: ngay bài “Người thuyền trưởng” ông viết về Nguyễn Văn Tố, cũng dưới hai bút hiệu khác nhau: phần đầu Phạm Đình Thái, phần sau Dương Quang Hiệt, sau mới thu thập lại làm một dưới tên Nguyễn Hữu Đang. (Bài Người thuyền trưởng viết nhân dịp kỷ niệm 50 năm Hội Truyền bá quốc ngữ (1938-1988), đăng trong tập kỷ yếu của Hội, do nhà xuất bản Bộ giáo dục ấn hành, sau này đăng lại trên Diễn Đàn số 78, tháng 10/1998, và diendan.org).

Trong thời kỳ làm báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang, ngoài bài “Hiến pháp Việt nam năm 1946 và hiến pháp Trung hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? trên Nhân văn số 5, ký tên thật, và bài trên Nhân văn số 6 (không ra được), còn có những bài nào khác, ông ký những tên gì?

Mạnh Phú Tư trong bài đả kích Nguyễn Hữu Đang, viết: “Hắn lẩn mình và rút lui vào bí mật. Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang”.

Ba người có thể cho biết rõ về việc này là hai nhà thơ Lê Đạt, Hoàng Cầm, và họa sĩ Trần Duy. Trần Duy là thư ký toà soạn báo Nhân văn, nhưng đã từ lâu ông im lặng.  

 Hoạt động Truyền bá quốc ngữ:  Về phong cách hoạt động của Nguyễn Hữu Đang trong phong trào Truyền bá quốc ngữ, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký ngày 16/6/1942: “Anh Nguyễn hữu Đang xuống làm việc cho Truyền bá quốc ngữ từ hơn hai tháng nay. Anh xin nghỉ ở sở Tài chính (Hà Nội) xuống  đây làm việc nghĩa. Đức hy sinh của anh thực không thể nào tả được. Nhờ anh mà phong trào quốc ngữ ở Hải phòng chết đi nay sống lại. Anh như một ông tướng khuyến khích được cả một đạo quân chiến bại. Muốn làm một bài thơ tặng anh ấy”.

Trong bài Người thuyền trưởng, Nguyễn Hữu Đang viết:” Mùa hè năm 1938, vào cuối tháng năm, một hôm đọc báo hàng ngày ở một trạm Bưu điện, cách Hà Nội hơn trăm cây số, tôi thấy bài tường thuật buổi cổ động đồng thời cũng là lễ ra mắt của Hội truyền bá quốc ngữ Bắc kỳ ở sân quần vợt Cậu lạc bộ thể thao An-Nam (CSA), mấy nghìn người tới dự, có cả đại diện Thống sứ Bắc kỳ, tổng đốc Hà Đông, đốc lý Hà Nội, chủ tịch Chi nhánh Hội nhân quyền Pháp, bí thư Chi nhánh đảng Xã hội Pháp (SFIO), nhiều nhân sĩ Pháp, Nam nổi tiếng, tôi chăm chú đọc.”

Như chúng ta đã biết Hội truyền bá quốc ngữ xuất thân từ Hội Trí Tri. Cụ Nguyễn Văn Tố, nhà nghiên cứu sử học và hán học tại trường Viễn Đông Bác Cổ là Hội trưởng Hội Trí tri, kiêm Hội trưởng Hội truyền bá quốc ngữ. Trong số những thành viên xây dựng Hội có các nhà trí thức như Hoàng Xuân Hãn, tác giả bài học thuộc lòng: i tờ có móc cả hai….

Lời chứng trên đây của Nguyễn Hữu Đang xác định lại một số vấn đề mà đến nay vẫn thường được người ta làm mập mờ đi:

– Lúc đầu, Hội được chính quyền thuộc địa chính thức công nhận.

– Nguyễn Hữu Đang không phải là một trong những người sáng lập hội như một vài tài liệu đã ghi. Trong bài này, ông cho biết lúc ấy ông đang dạy học ở nông thôn, hè về Hà nội, tình cờ gặp Đào Duy Kỳ ở ngoài phố, Đào Duy Kỳ khuyên ông nên đến Hội Trí Tri, phố Hàng Quạt để nhận việc dạy học giúp Hội.

– Việt Minh, mặc dầu có những người tham dự Hội truyền bá quốc ngữ, nhưng  không có vai trò lãnh đạo và khai sinh ra Hội Truyền bá quốc ngữ, như khẩu hiệu: “Diệt giặc ngoại xâm ta có chiến dịch Điện Biên Phủ, diệt giặc dốt, ta có chiến dịch Truyền bá quốc ngữ”. Trong những tài liệu chính thức của nhà nước, người ta không nhắc đến vai trò chủ chốt của Hoàng Xuân Hãn trong Hội Truyền bá quốc ngữ, vì ông không theo cộng sản.

Vẫn theo bài viết của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta được biết từ 1938 đến 1945, trong “Bảy năm liền, thuyền trưởng Nguyễn Văn Tố, về căn bản, đã làm tròn nhiệm vụ”. Sau khi Việt Minh lên nắm chính quyền (1945), chính phủ cách mạng lâm thời quyết định thành lập Nha Bình dân học vụ để thay thế Hội truyền bá quốc ngữ. Từ đó vai trò thuyền trưởng của Nguyễn Văn Tố mới chấm dứt.

– Tài liệu chính thức (ông Quang Quý và nhiều nơi chép): từ tháng 6/1949 đến tháng 10/1954, Nguyễn Hữu Đang được cử làm thanh tra Bình dân học vụ, là sai. Vì lúc đó Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng rồi.

  Trước 1954: Về tài trí của Nguyễn Hữu Đang, ngày 30/7/1942, Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký: “Nghe Đang nói chuyện, tự thẹn. Anh đã biểu lộ ngay từ bé một tính cách đặc biệt, hùng hổ và ngang tàng. Không sợ, khinh quyền thế, biến báo giỏi, biết thân phận mình, tin ở tài mình, đó là những tính cách của một người giỏi”.

1945 là năm Nguyễn Hữu Đang hoạt động mạnh, về mặt chính trị, ông được chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc Lập ở Ba Đình; về mặt văn hoá, ông chủ trương tạp chí Tiên Phong cùng Đặng Thai Mai viết bài Định nghiã hai chữ văn hoá (in trên  Tiên Phong số 1, ra ngày 10/11/ 1945). Tư thế chính trị và văn hoá của Nguyễn Hữu Đang từ 1945  đến 1947 đã lên tới tột điểm.

Vị trí này được Nguyễn Huy Tưởng xác định trong nhật ký ngày 15/11/1947: “Chuyện Tham Ý. Phục các cán bộ Việt minh (…) Phục Đang. Hỏi thầm một người: Có phải là cánh tay phải của cụ Hồ không? Băn khoăn không biết bây giờ Đang về khu này thì phải vào chức gì cho xứng? Theo ý anh tham biện ấy, thì ở đây không có một chức gì cao hơn để Đang làm cả, vì Đang trên cả uỷ ban kháng chiến”.

Qua bài Định nghiã hai chữ văn hoá, chúng ta biết được những nhận thức của Nguyễn Hữu Đang về văn hoá,  biết được mối tương giao của ông với những nhà văn hoá đương thời như Nguyễn Đức Quỳnh (trốt-kít), Đào Duy Anh. Chính sự giao thiệp rộng của ông với các nhà trí thức trong nhóm Hàn Thuyên đã gây khó khăn cho ông.

Qua lời buộc tội của Hồng Vân trong bài “Tên quân sư quạt mo: Nguyễn hữu Đang”, chúng ta có thể hiểu rõ nguyên nhân tại sao ngay từ năm 1929, 16 tuổi, ông đã được coi là “đối tượng kết nạp” mà mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được kết nạp vào đảng, cũng như  việc ông xa rời đảng khoảng một năm sau khi được kết nạp:

 ”Khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương “cần dựa vào Nhật của bè lũ tờ- rốt-kít”.   

“Bất mãn vói đoàn thể Văn Hoá Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hoá toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hoá toàn quốc”

“Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết thái độ chính trị ra sao. Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ.”

“Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền (…) không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm Thanh tra Bình dân học vụ”.  

“Đang tham gia phong trào đã lâu, nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưỏng cơ hội nặng nề như vậy cho nên đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình Dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Đang ở lại Thanh Hoá làm “quân sư” cho nhà xuất bản Minh Đức (…) Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng”.

 Năm 1947 ông được kết nạp vào đảng, và theo Nguyễn Huy Tưởng, thì năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh cụ Hồ.

Vậy Nguyễn Hữu Đang đã bỏ đảng từ năm nào?

Theo Hồng Vân, Nguyên Hữu Đang bỏ hoạt động từ khi cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc. Vậy cần xem lại: Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc năm nào? Diều này không khó, vì nhiều người lớn tuổi ở trong nước biết rõ việc này. Nhưng có lẽ đây chỉ là cái cớ mà Nguyễn Hữu Đang đưa ra để thôi hoạt động.

Hoàng Cầm có một lý do sâu xa hơn: “Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại hội văn hóa toàn quốc  do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch. Hội nghị văn hóa toàn quốc được tổ chức để động viên và hướng dẫn trí thức và văn nghệ sĩ chuẩn bị đi sâu vào cuộc kháng chiến (…) Tức là lúc bấy giờ hội nghị mới đề ra văn nghệ kháng chiến. (…) Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức (…) Mãi sau này, hòa bình rồi, về Hà Nội tôi cũng chỉ nghe phong phanh anh em bàn tán thôi chứ hỏi anh Đang thì anh cũng không nói, là hình như trong hội nghị văn hóa toàn quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa” (Xem bài Tưởng niệm Nguyễn Hữu Đang).

Nhưng theo bản tường trình của Xuân Diệu về Hội nghị văn nghệ toàn quốc, thì Nguyễn Hữu Đang không đi dự hội nghị này, mặc dù như trên,ta đã biết, là đến cuối năm 1946, Nguyễn Hữu Đang còn là chủ tịch uỷ ban vận động hội nghị văn hoá toàn quốc (còn gọi là Hội nghị văn nghệ toàn quốc), nhưng vì chiến tranh, cho nên đến tháng 7/1948 mới tổ chức được Hội nghị này. Như vậy, mối bất đồng giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang đã xẩy ra trước hội nghị cho nên Nguyễn Hữu Đang mới không đi dự.

Vẫn theo lời Hoàng Cầm (phần này chúng tôi chưa kịp ghi ra hết để đăng trên HL số này): Sau khi hoà bình lập lại, Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu bàn nhau (dĩ nhiên là có sự đồng ý của Trường Chinh), là anh Đang đã lâu lắm anh ấy không làm gì, vậy nên mời anh ấy ra hoạt động lại”. Điều này phù hợp với việc Nguyễn Huy Tưởng mời Nguyễn Hữu Đang về báo Văn Nghệ, như lời chứng của Lê Đạt và như Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký.

Tóm lại thời kỳ 1948-1954, trái với những gì ghi trong tiểu sử chính thức: Trong 6 năm, Nguyễn Hữu Đang ngừng mọi hoạt động với chính phủ cách mạng.

Và khi trở lại, thì ông bắt đầu bằng bài tham luận “nẩy lửa” đọc trong buổi học tập Văn Nghệ, chỉ trích những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ.

Việc Nguyễn Hữu Đang đả kích công khai đường lối của đảng và của lãnh đạo văn nghệ trong thời kỳ này đã khiến Nguyễn Huy Tưởng ghi trong nhật ký những hàng sau đây: ‘”Nguyễn Hữu Đang tiêu cực. Ở đâu cũng thấy không vừa ý. Người có caractère, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn (nhật ký ngày 21/4/55). “Đầu óc nặng vì bài Đang công kích thuế. Hữu khuynh (24/4/1955) “Học tập tình hình và nhiệm vụ. Đang không học tập. Đúng hôm góp ý kiến cho Tiểu ban thì đến. Đặc biệt đả kích mình: (đã) in Gốc đa, Gặp Bác, v.v.. (23/6/1955) “Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang (21/8/56).

Những bực mình và dằn vặt này của Nguyễn Huy Tưởng về tình hình chung và về Nguyễn Hữu Đang càng làm sáng tỏ tư cách của ông trong việc bênh vực Nhân văn sau này.    

 Hoạt động Nhân Văn: Theo lời buộc tội của Mạnh Phú Tư: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài, nhưng lại ký tên người khác, che lấp những nguồn tài chính, những người cung cấp phương tiện bằng hình thức nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên gấp mười!”. ( xem bài Mạnh Phú Tư). 

Trong bản tự kiểm thảo, Trần Dần cũng đã xác định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn”.

Hoàng Cầm: “Nhân Văn ra số đầu tiên khoảng tháng 9 năm 1956 tức là cách Giai phẩm mùa xuân 8, 9 tháng. Làm Giai phẩm mùa xuân, Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông cũng là do tôi và anh Lê Ðạt làm là chính. Thế rồi đến Nhân Văn thì anh Nguyễn Hữu Ðang là người sinh ra báo Nhân Văn, tôi là người đặt tên cho tờ báo. Nhưng đồng thời sau đó cũng lại chính mình phải làm tất cả mọi viêc của tờ báo. Phụ thêm thì có anh Lê Ðạt. Thế còn anh Trần Dần thì vì anh ấy cũng yếu và những công việc của một tờ báo thì anh ấy cũng không làm được”.  (HC trả lời phỏng vấn TK, HL số 81)

 Sau đây chúng tôi đúc kết những lời Lê Đạt nói về tờ Nhân văn và vai trò của Nguyễn Hữu Đang trong báo Nhân văn, trên HL số 81:

“Tháng 5 năm 1956, bắt đầu ở Trung Quốc có phong trào Trăm Hoa Ðua Nở thì ở Việt Nam cũng bắt đầu có cuộc học tập văn nghệ về vấn đề dân chủ. Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Và tôi phải nói về anh Ðang như thế này: Anh Ðang là người hoạt động lâu năm ở trong Ðảng, nhưng đã từ lâu – hình như có cái gì không bằng lòng mà trong danh từ của chúng tôi người ta thường gọi là “bất mãn” – anh không hoạt động nữa. Lúc bấy giờ Nguyễn Huy Tưởng có đón anh ấy ra để làm báo Văn Nghệ, cùng với tôi. Trong buổi học tập Văn Nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi -Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ- Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm”. Ðó là lời nói của Ðang như thế. Trong tất cả các anh em Giai Phẩm Mùa Xuân chỉ có tôi là biết Ðang thôi, nhưng do việc họp văn nghệ như thế thì Ðang cũng dần dần biết anh em chúng tôi nhiều hơn, tiếp xúc với nhóm Giai Phẩm Mùa Xuân nhiều hơn, nhưng Ðang cũng chỉ thân với tôi thôi. Thế còn Trần Dần, Văn Cao, và các anh em… cũng không thân gì với Ðang lắm.

Ðang nói với tôi: “Thế nào cũng phải ra báo và ra báo thì chắc là tụi mày phải làm thôi.” Vì tình hình Trung Quốc họ làm như thế, cho nên ở Việt Nam cũng có cởi mở hơn về vấn đề dân chủ, tháng 9 năm 1956, cho tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân. Như thế bước đầu, có thể gọi là một thắng lợi. Và trong tình hình sôi sục như thế Ðang có đề nghị ra một tờ báo, tờ báo này chính là tờ Nhân Văn.

Ðến lúc ra báo Nhân Văn, cũng lại có nhiều khó khăn lắm. Anh Dần muốn trực tiếp lo chuyện gia đình vì anh ấy gặp nhiều khó khăn quá: bị bắt rồi lại phải lo cho con cái. Còn tôi lúc đó, tôi cũng muốn nghỉ (…) Chúng tôi mới quyết định thế này: Anh Cầm đang rỗi rãi, bèn giao Nhân Văn cho anh Cầm. Tách anh Cầm ra làm việc chung với anh Ðang (…) Việc quản trị tờ Nhân Văn là do anh Ðang lo. Anh Ðang trước đã hoạt động trong giới văn hóa nội thành, cho nên anh ấy quen rất nhiều những người làm văn hóa và những cơ sở in ấn ở nội thành.

Về số 1 Nhân Văn, nguồn gốc cái tên Nhân Văn, bây giờ kể lại, có hơi phức tạp, vì tôi không hiểu là ai nói đúng. Tôi nghĩ rằng các anh ấy cũng chẳng nói dối đâu, nhưng chắc là trí nhớ của các anh không phục vụ các anh một cách trung thành: Anh Cầm thì nói rằng tên Nhân Văn là do anh ấy nghĩ ra. Còn anh Ðang cũng nói Nhân Văn do anh ấy nghĩ ra, thực tình tôi cũng không hiểu như thế nào. Còn mọi việc cứ để các anh tĩnh trí nghĩ lại (…) Sáng kiến này là của Ðang – Ðang bảo: “Hay là mời cụ Phan Khôi? Mà cụ Phan Khôi cũng lại không thân gì với Ðang lắm. Thế là anh Hoàng Cầm được cử đến mời cụ Phan Khôi. Phan Khôi khẳng khái nhận lời ngay”.

  Tất cả những trích dẫn trên đây đã cho ta thấy rõ hơn chân dung của Nguyễn Hữu Đang. Nhưng qua những bài viết của ông, mà chúng tôi tạm thời thu thập được, độc giả sẽ thấy nhiều khía cạnh khác nhau trong con người ông: một nhà văn hoá qua bài Định nghiã hai chữ Văn hoá (viết chung với Đặng Thai Mai). Tinh thần tranh luận khoa học và lịch lãm trong bài Văn Hoá tức là. Óc phân tích phê bình trong bài Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm. Tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ trong bài Hiến pháp Việt Nam năm 1946 và Hiến pháp Trung Hoa bảo đảm tự do dân chủ thế nào? Sự thẳng thắn, khúc triết, hùng biện, trong bài trả lời phỏng vấn.

Về con người và uy tín của Nguyễn Hữu Đang, chúng ta sẽ tìm thấy trong các mảnh chân dung mà các bạn ông viết hoặc nói về ông, đặc biệt những dòng trong Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng. Nguyễn Huy Tưởng và Tố Hữu là hai nhân vật quan trọng trong ban lãnh đạo văn nghệ thời đó. Tuy bị Nguyễn Hữu Đang chỉ trích nặng nề, nhưng thái độ của Nguyễn Huy Tưởng đối với Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt và Nhân văn Giai Phẩm khác hẳn thái độ của Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi. Những gì ông lưu lại trong nhật ký vừa vẽ nên chân dung Nguyễn Hữu Đang, vừa vẽ chân dung Nguyễn Huy Tưởng như một nhà văn hiếm hoi, nếu không muốn nói là duy nhất, trong ban lãnh đạo văn nghệ, không những đã giữ được nhân cách của mình, mà còn viết thư phản đối Trường Chinh, bảo vệ Nhân văn Giai phẩm, trong một thời mà con người, dù tài năng đến thế nào, cũng đã phải bán rẻ lưong tâm, lấy cái sợ làm phương châm sống còn, sống cúi đầu im lặng, sống mất mình trong phong trào bồi bút. Một số bài mạ lỵ Nguyễn Hữu Đang cũng được đăng lại ở đây, để chúng ta thấy rõ không khí bồi bút thấp hèn mà những người trong Nhân văn Giai phẩm đã phải chịu đựng trong nhiều thập kỷ.

 

 Thụy Khuê

Paris, tháng 3/2007

Liên kết tĩnh Gửi bình luận